Hệt như Thượng đế tạo tác cơ thể con người, xã hội phong kiến sắp xếp ngôi làng Việt, ngăn nắp dến mức khó bề xê dịch, khó bề cựa quậy.
Từ con đê xuống, từ cánh đồng vào, qua cổng là ta bước vào thế giới làng, chằng chịt bởi ngõ nghách, đầy ắp bởi nhà, người và những mối liên quan, dây mơ rễ má.
Thế giới làng, một thời quây kín bởi lũy tre - tường thành, mở đóng bởi những cái cổng khởi đầu cho con đường làng, dẫn tới sân đình, cổng ngõ và cổng nhà. Sau cái cổng nhà là sân gạch, nếp nhà, cái ao và mảnh vườn, - không gian trú ngụ cho những kiếp người, đã và đang sống.
Hệt như Thượng đế tạo tác cơ thể con người, xã hội phong kiến sắp xếp ngôi làng Việt, ngăn nắp dến mức khó bề xê dịch, khó bề cựa quậy. Cuộc đời ngôi làng cứ như thể đặt lên cỗ máy, sàng cho những gì là tinh hoa lọt xuống cái nia thời gian, kết hồ thành một thể thuần và quyện, cả phần xác lẫn phần hồn.
Xã hội phong kiến thể chế hóa cấu trúc không gian và kiến trúc của làng. Nó định hình luôn cả quy cách lẫn diện mạo, lấy cái lớn làm cái chung, giành cái nhỏ cho cái riêng. Giàu thì xây đề huề, nghèo thì dựng đơn sơ. Làng nào cũng sở hữu đủ một bộ: đình, chùa, am, miếu, nghè, quán, điếm canh, cổng làng, cổng ngõ...
Cổng làng không chỉ là cột mốc, không chỉ là anh lính canh. Cổng làng còn là cái sự xưng danh, là cái "tôi" của mỗi làng. Ngày xưa, các cụ hay nép, hay né mình trước thiên hạ là thế, song cũng ngấm ngầm hãnh diện bởi cái cổng bề thế, bởi cái đường làng lát gạch, bởi cái giếng khơi kè đá ong và cái đình to tát.
Là cổng, làm cái nơi ra vào,song cổng làng Việt hình như hướng "vào" nhiều hơn hướng "ra". Nó đảm nhiệm phận sự gìn giữ. Chẳng thế mà, nghe kể, làng Hồ và làng Bưởi ở Hà Thành xưa, cách nhau có cái vách tường, mà tiếng nói khang khác. Chẳng thế mà dân làng này kháo dân làng nọ có những tập tục lạ. Cổng làng, chiếm giữ vị trí tiền tiêu, canh giữ những dị biệt trong nếp sống và trong lời ăn tiếng nói của mỗi làng. Dị biệt tạo nên sức sống, sức đề kháng của làng, của từng vùng đất, của văn hóa Việt.
... Mấy chục năm nay tôi quan sát một cái cổng làng trên đất Thuận Thành, ở Bắc Ninh. Nó đường bệ hơn cả cổng đền, cổng chùa. Đường dẫn tới cái cổng ấy hai bên mọc những cây bàng, nghiêng vào nhau, như theo lệnh. Một bên cổng là cây đa trăm tuổi, đằng sau là những tán nhãn cổ thụ. Sau nữa là cây gạo cao vút, nhoẻn những nụ cười bởi những đóa hoa to ngô nghê mỗi dạo cuối xuân. Thế rồi, vài năm nay, đằng sau cổng làng chồng chất lên những nhà hộp theo kiểu chia lô. Thế rồi, đằng trước hai dẫy bàng bị đẵn đi, bên đường xây lèn sát nhau toàn những cái nhà xây hình hộp, cộc lốc.
Cái cổng làng xưa lâm vào thế định mệnh: Nó không thụt lùi, không dấn lên, không né sang bên được. Nó lọt thỏm và lạc lõng ở chính cái nơi nó ngự trị cả trăm năm. Vôi vữa long lở, cửa tò vò bị mài mòn và sứt sẹo, si và cỏ dại mặc sức mọc trên tầng , trên mái. "Bô lão" cổng, bởi sức nặng của bản thân và thời gian, thấp lùn dần, - nó mọc ngược xuống đất.
Cái cổng trở thành vật cản, thành cái người đời tránh né. Cái gì cao và to, - tránh sang hai bên. Người đi qua, tự dưng khom khom. Sợ cộc đầu.
Thời đại quá cỡ không còn chui lọt cổng làng. Nó đã là tàn dư.
Con người cũng vậy, một khi không lùi cũng không tiến kịp thời gian, đành nhận ra mình đã là tàn dư.
Ngày nay người ta thường nói đến di tích, tới di sản. Liệu bao nhiêu làng cổ, bao nhiêu cổng làng trên đất Việt sẽ được liệt vào danh sách bảo tồn?
Cơ man những cơ thể làng già nua, cơ man những cổng làng xưa cũ sẽ phải cam chịu thân phận tàn dư. Đời là vậy!
Thế nhưng lòng ta cứ nao nao, khắc khoải: Đã là tàn dư, hẳn đi vào hư vô. Còn lại gì đây? Nỗi hoài niệm khôn nguôi.
Đến lúc nào đó, sẽ chỉ còn những cổng nhà.
GS TS KTS Hoàng Đạo Kính