|
| Người Việt xấu xí. | |
| | Tác giả | Thông điệp |
---|
Hoàng Hưng Người sáng lập
Tổng số bài gửi : 408 Join date : 27/04/2008 Age : 37
| Tiêu đề: Người Việt xấu xí. Thu Sep 17, 2009 5:59 pm | |
| Từ ngày thành lập diễn đàn này, chúng ta đã nói rất nhiều về vẻ đẹp của văn hoá cũng như con người Việt Nam. Nay Cát Bụi tôi mạn phép gửi đến các bạn một chùm bài viết về những thói xấu của người Việt Nam, chùm bài viết này được tổng hợp từ nhiều nguồn khác nhau với tên gọi chung là Người Việt xấu xí, đây không phải là các bài viết nói xấu người Việt ta, mà là sự tổng hợp nghiên cứu về những cái xấu để chúng ta tránh và sửu chữa những cái xấu ấy. Có thể sẽ có nhiều người không hài lòng hoặc tức giận, vì vậy rất mong nhận được phản hồi của các bạn. Thân ái !
Được sửa bởi Cát Bụi ngày Thu Sep 17, 2009 9:03 pm; sửa lần 6. | |
| | | Hoàng Hưng Người sáng lập
Tổng số bài gửi : 408 Join date : 27/04/2008 Age : 37
| Tiêu đề: Re: Người Việt xấu xí. Thu Sep 17, 2009 6:09 pm | |
| Người Việt và những thói xấu. Bài này chống chỉ định cho những ai đang là người Việt và thích được nghe khen, thích những lời êm tai. Dẫu biết rằng viết bài này xong có thể sẽ có một lô chỉ trích từ các “phần tử cực đoan”, nhưng vẫn viết vì diễn đàn đâu phải chỉ là chỗ để khen tặng lẫn nhau.Người Việt xưa nay vẫn được tự sướng là cần cù, siêng năng, chăm chỉ… Khoan xét những điều đó đúng hay sai, cho là đúng đi. Thì bên cạnh đó người Việt vẫn còn bị hàng lốc những tính xấu khác kéo ghì cả dân tộc xuống hạng 144 trong bảng tổng sắp 181 quốc gia trên thế giới. Vô kỷ luậtVô kỷ luật dẫn đến coi thường giờ giấc. Điển hình là đám bạn của tôi (và hầu hết những người chung quanh hiện tại), hẹn hò 9h thì 9h15 vẫn chưa thấy bóng dáng, thậm chí trước khi đến đã nhắn tin + gọi điện thoại trước bảo rằng bây giờ sẽ ra, vẫn ậm ừ rồi 9h30 lết thết tới. Tệ hơn nữa là có người đã chuẩn bị trước, nhưng vẫn tung tăng đợi một thời gian rồi mới ra vì “có ra sớm cũng phải đứng đợi”. Riết bây giờ tôi phải tự đề ra 2 cách giải quyết: 1 là ra điều kiện, hẹn 9h nếu 9h5 mà không thấy ai đến thì tôi đi về. 2 là trường hợp không thể dùng cách đó, thì hẹn sớm 8h30 rồi 9h đến – vô hình chung giải quyết theo cách này thì tôi cũng thành một trong số họ. Phát chán! Vô văn hóaNghe có vẻ nặng nề nhưng từ vô văn hóa được dùng chính xác trong trường hợp này. Điển hình nhất là cái văn hóa tối thiểu, đó là xếp hàng. Tôi đã từng chửi thẳng những người như thế ở sân bay, rạp chiếu phim, máy rút tiền ATM… Một dãy người đang xếp hàng thì từ đâu xộc tới chen ngang vào, thậm chí gạt cả người đang đứng xếp hàng ra một bên. Hoặc như chuyện lái xe ngoài đường, một dây đang xếp hàng nối đuôi nhau, bỗng có một xe chen vào làn xe máy rồi cắt ngang vào. Những trường hợp này tôi chưa bao giờ cho vào, xe tôi số tự động nên tôi chấp bất cứ cái xe nào cũng không thể chen ngang kiểu đó với tôi được. Thậm chí bố láo thì tôi vẫn bang thẳng lên ép ra ngoài rồi gọi công an đến xử. Cũng chuyện lái xe là bật đèn pha trong thành phố, không biết họ có hiểu được cái cảm giác khó chịu như thế nào khi xe chạy sau liên tục pha thẳng đèn vào mặt, điều này không những gây khó chịu mà còn gây nguy hiểm cho xe khác. Người Việt đố kỵĐây là cái tính tệ hại nhất mà tôi thấy ở rất nhiều người Việt, cứ cái gì của mình cũng tốt cũng đẹp, cứ cái gì của người khác là y như rằng phải dở. Thằng kế bên sắm cái tivi 21 inch thì nhất định mình phải sắm cái 25 inch. Còn nếu sắm không nổi cái 25 inch thì vẫn tìm cách nói cái 17 inch nhà mình hơn cái 21 inch nhà nó. Có lần tôi vào một ngôi nhà ở miền Bắc, cả nhà thuộc diện bình thường và có phần dưới trung lưu, nhưng vẫn chơi 1 cái LCD hoành tráng mà đúng ra phải để trong biệt thự. Từ cái tính này sẽ sinh ra cái tính tự cao tự đại (và cả tự sướng), cái gì của mình cũng là nhất. Và xét rộng hơn một tí thì cái sự tự sướng này đang ở cấp quốc gia khi mà giáo dục lúc nào cũng ru ngủ thế hệ trẻ bằng rừng vàng biển bạc (tiên sư, đất nước đã có rừng vàng biển bạc thì ông cần quái gì phải học, cứ thế mà cưa xuống kéo lên ăn thôi), rồi nào là người Việt với hàng loạt đức tính thông minh, chăm chỉ, cần cù, kiên cường, bất khuất, đảm đang, ABCDE gì đó… Từ cái tính đố kỵ này sinh ra thêm 1 cái tính là nói xấu sau lưng người khác, cứ hễ tụm năm tụm ba là y như rằng chủ đề sẽ là nói về một người nào đó đang không có mặt. Chẳng hiểu hay ho vui vẻ gì mà cái điều này xảy ra rất thường xuyên, cả trong những môi trường được cho là trí thức và lịch sự. Người Việt ích kỷNgười Việt khi nghèo khổ rách rưới thì rất đoàn kết, nhưng khi đã có chút điều kiện thì y như rằng tan nát. Điều này đúng với rất nhiều trường hợp, thử nhìn lại lịch sử. Cứ mỗi khi bị xâm lăng, bị đô hộ thì toàn dân tộc là một khối đứng bên nhau. Khi yên ổn rồi thì nhất định sinh chuyện. Chế độ VNCH khi trước nếu không có hàng lô tướng lĩnh và những người lãnh đạo tham nhũng thì chắc cũng không đến kết cục ngày 30/4 với hàng loạt viện trợ quân sự, tài chính từ các nước đồng minh. Rồi với chế độ hiện tại thì khỏi phải nói, tham nhũng đạt đến hàng thượng thừa. Phạm vi nhỏ hơn một tí về cá nhân thì ai biết được cái gì cũng ôm khư khư, dấu nghề, những bí kiếp làng nghề cha truyền con nối được giữ kín như mèo giấu …, rồi đến thời nay, ai học được kỹ thuật gì mới là dấu nhẹm đi, thầy dạy trò thì sợ trò hơn mình (chuyện hoàn toàn có thật trong đa số các trường dạy nhiếp ảnh hiện tại). Họ biết đâu rằng chính sự chia sẻ sẽ mang họ đến những kiến thức mới. Từ cái đố kỵ và ích kỷ sinh ra việc không ai tin ai và tệ hơn nữa là hãm hại lẫn nhau, điều này thường xảy ra trong những môi trường công sở với tình trạng bè phái đấu đá hãm hại lẫn nhau. Những cộng đồng người Việt ở nước ngoài thì chia rẽ, sống khép kín… Người Việt chia rẽNgười ta thường nói người Việt có tinh thần đoàn kết, nhưng thử nhìn lại lịch sử dân tộc thì chỉ trừ những lúc bị giặc ngoại xâm, còn lại có thể nói dân tộc liên miên sống trong chia lìa, từ thời sơ khai đã loạn 12 sứ quân, Trịnh Nguyễn phân tranh, rồi Tây Sơn – Nhà Nguyễn, rồi chiến tranh Việt Nam – mà thực chất là chiến tranh Nam Bắc… Cấp độ nhỏ hơn, ở miền Nam còn đỡ, miền Bắc thì làng này với làng kia đôi khi xem nhau như kẻ thù, trai làng này léng phén qua làng kia không khéo ôm đầu máu về. Tất nhiên không phải người Việt nào cũng xấu xí, vẫn còn có những nhân cách sống rất đẹp, tuy nhiên họ dần lạc lõng giữa số lượng quá đông đảo những người Việt xấu xí. Còn nữa không những nhân cách xấu của người Việt? Viết ra không phải để bôi bác lẫn nhau, bởi tôi cũng là một người Việt, mà viết ra để thấy được những điều xấu của nhau để giúp nhau khắc phục, để tự mình rèn bản thân mình. Những chướng ngại này đến khi nào vượt qua được thì mới mong dân tộc lên một tầm cao mới, muốn vượt qua người khác thì trước hết phải vượt qua được chính bản thân mình đã. Theo: blog.ngochieu.com | |
| | | Hoàng Hưng Người sáng lập
Tổng số bài gửi : 408 Join date : 27/04/2008 Age : 37
| Tiêu đề: Re: Người Việt xấu xí. Thu Sep 17, 2009 6:23 pm | |
| Thói hư tật xấu của người Việt: Học không biết cách, giỏi bắt chước. Học không biết cách(Nguyễn Văn Vĩnh, Đông Dương tạp chí, năm 1913) Về đạo cương thường cứ nói rằng thâm nhiễm(1) của Tàu nhiều lắm rồi, nhưng tôi xét ra chưa có điều gì gọi là thâm nhiễm cả. Trong hết cả số người theo Nho học thì họa là có mấy ông vào bực giỏi, hiểu biết được đạo Khổng Mạnh. Còn những bực nhoàng nhoàng thì thường cứ thấy người học cũng học, học cho thuộc cách mà thôi, chứ không có định trong bụng rằng theo những điều nào, kháp(2) đạo ấy vào tính tình riêng của người nước mình nó ra sao... Vua Gia Long bỏ luật Hồng Đức(3) đi, mà làm ra cả một pho luật mới chép tuốt cả của Tàu, cả từ điều nước mình có, cho đến những điều mình không có, cũng bắt chước. Thành ra luật pháp cũng hồ đồ. Cương thường đạo lý toàn là giả dối hết cả, không có điều gì là có kinh có điển. (1) thâm nhiễm: ảnh hưởng sâu sắc. (2) kháp: tức khớp, ghép lại cho khít, cho phù hợp (3) bộ luật cổ của nước ta có từ thời Lê, tham khảo nhiều từ bộ luật đời Đường. ------------------------------------------------------------------------------- Chỉ học theo lối mòn(Trần Trọng Kim, Nho giáo, năm 1930) Về đường học thuật và tư tưởng thì xưa nay ta chỉ có mấy lối học của Tàu truyền sang: trong đời nhà Lý và nhà Trần thì sự học của ta theo lối huấn hỗ(1) của Hán nho và Đường nho, rồi từ đời Lê về sau thì theo cái lối học của Tống nho. Ta chỉ quanh quẩn ở trong phạm vi của lối học ấy chứ không thoát ly được mà sáng lập ra cái học thuyết nào khác. Phần nhiều người trong nước lại có cái tư tưởng rằng những điều thánh hiền nói ở trong các kinh truyện đã đủ hết cả rồi, không ai biết được hơn nữa, cho nên kẻ học giả chỉ chăm chăm theo cho đúng những điều ấy mà tiễn lý(2) thực hành, chứ không ai để ý mà tìm cho đến cái chân lý nó thường lưu hành biến hóa. Cũng có người đạt tới chỗ uyên thâm của Nho giáo, song những người ấy lại cho rằng cái học sâu xa là tự mình phải lý hội(3) lấy chứ không thể lấy văn từ ra mà tuyên bố được. Bởi vậy các tiên nho ở ta chỉ làm văn thơ để tả cái tính tình của mình mà thôi, không hay làm sách vở để phát minh tư tưởng. Kết quả thành ra cái học Nho giáo thì rộng khắp cả nước mà cái học thuyết thì không thấy có gì là phát minh vậy. (1) lối học bám vào từng chữ để giải thích (2) tiễn ở đây là noi theo; tiễn lý là theo cái lý vốn có (3) hiểu -------------------------------------------------------------------------------- Giỏi bắt chước, thiếu sáng tạo(Đào Duy Anh, Việt Nam văn hóa sử cương, năm 1938) Nhà nghệ thuật Việt Nam không phải là người biểu diễn ý chí tâm tình của mình, cũng không phải là người quan sát và biểu hiện tự nhiên mà chỉ là người giỏi bắt chước những kiểu mẫu sẵn. Có muốn hơn người thì họ chỉ cốt ra tay cho khéo, chỉ cốt làm cho thật tỉ mỉ, thật tinh tế, thật dụng công... Bởi thế mà nghệ thuật Việt Nam tuy có tính chất lưu động(1) và phiền phức(2), nhưng thiếu hẳn hoạt khí(3), cách biến hóa chỉ ở trong phạm vi hình thức... (1) theo ngôn ngữ thời nay, tức linh động, mềm mại (2) rườm rà nhiều mối (3) sức sống. Nguồn: Thể thao văn hóa | |
| | | Hoàng Hưng Người sáng lập
Tổng số bài gửi : 408 Join date : 27/04/2008 Age : 37
| Tiêu đề: Re: Người Việt xấu xí. Thu Sep 17, 2009 6:34 pm | |
| Nặng óc hư danh, Sống không lý tưởng Nặng óc hư danh (Phạm Quỳnh,Danh dự luận, Nam phong, 1919)
Dân ta là dân rất hiếu danh, mà hiếu hư danh, tật đó dẫu người nông nổi xét xã hội mình cũng đủ biết. Từ trên xuống dưới từ thấp chí cao, từ anh khố rách trong làng cố cầu cạnh cho được chức trương tuần phó lý để được người ta khỏi gọi là bố đĩ, bố cu cho đến bậc phú thương nơi thành thị thi nhau mà mua lấy tiếng ông bá ông hàn để ra mặt thượng lưu trong xã hội, cậu cả cậu hai luồn lót hàng chục hàng trăm để được gọi là thầy thông thầy phán, hết thảy đều như có cái ma lực nó run rủi, phải cố chuốc lấy chút danh tiếng hão mới mãn nguyện.
Không có lòng danh dự mà có tính hiếu danh thời dễ táng thất lương tâm. Quỵ lụy khúm núm trước mặt người trên, châu tuần(1) nơi quyền quý để cầu sự nọ, khấn việc kia, ví phải đập đầu xuống đất mà lạy cũng cam tâm. Xét cái danh dự phổ thông trung xã hội, cái danh dự hàng ngày hiển hiện ra trong cuộc giao tế(2), thời phải chịu rằng người mình ít có thật.
(1) loanh quanh chầu chực nơi nào đó.
(2) quan hệ trao đổi tiếp xúc với nhau.
--------------------------------------------------------------------------------
Sống không lý tưởng (Hoa Bằng, Hư sinh, Tri Tân, 1943)
Có chí mà không làm nổi, đó là vì tài lực không đủ thật không đáng trách. Nhưng trong chúng ta, đáng trách là hạng người sau: sống ở đời, không có mục đích gì cao hết. Họ không có một cuộc đời lý tưởng. Họ không coi một thứ gì là đáng ham chuộng, ngoài sự làm tôi đồng tiền mặc dầu phải quăng bỏ liêm sỉ bán rẻ nhân cách.
Ngoài ra, lại còn một hạng cho ai cũng là người võ vị , việc gì cũng là việc không đáng làm, ngất ngưởng qua ngày, hững hờ đoạn tháng, để đồng tiền huyết hãn(1) của cha, mẹ, vợ, con vào vòng trời hoa đất rượu, phung phí tuổi giàu sức khoẻ vào những cuộc đỏ đen suốt sáng, mây khói thâu canh. Họ chỉ cốt sống để tìm những thỏa mãn về vật dục(2)...
(1) huyết: máu, hãn: mồ hôi, ngày nay hay nói mồ hôi nước mắt.
(2) mọi ham muốn vật chất.
Hủ bại tầm thường, bóc lột thay quản lý Đời sống hàng ngày hủ bại tầm thường (Nguyễn Văn Vĩnh, Chuyên mục Nhà nho, Đông dương Tạp chí, năm 1914)
Các tật của nhà nho đại khái như sau:
1- Tính lười nhác, làm việc gỉ không mấy ông chịu chăm chút siêng năng. Đi đâu thì lạng khang rẽ ràng. Sáng không dậy được sớm, mà đứng dậy thì làm thế nào cũng phải ngồi ngáp một lúc, rồi nào hút thuốc, nào uống nước, nào ăn trầu, nào rửa mặt sau mới nhắc mình lên được mà ra ngoài.
2 - Tính nhút nhát, động làm việc gì thì lo trước nghĩ sau, không dám quả quyết làm ngay. Thí dụ như chưa đi buôn đã lo lỗ vốn, chưa làm ruộng đã sợ mất mùa. Quanh năm chỉ ngồi một xó không được một trò gì.
3 - Hay nghĩ viển vông mà không lo việc trước mắt. Tiền sờ túi không một xu mà vẫn gật gù đánh chén, sánh mình với Lý Bạch, Lưu Linh. Gạo trong nhà không còn một hột, mà vẫn lải nhải ngâm thơ, tỉ(1) mình với Đào Tiềm, Đỗ Phủ. Học thì chẳng được một điều gì thực dụng mà vẫn tự đắc là tai thánh mất hiền(2). Nói khoác thì một tấc đến trời mà rút lại mười voi không được bát nước sáo.
4 - Ngoại giả các tính ấy, lại còn một tính làm cho hại việc là tính cẩu thả. Xem điều gì hoặc làm việc gì, chỉ cẩu cho xong việc, chớ không chịu biết cho đến nơi đến chốn hoặc làm cho thực kinh chỉ(3) vững vàng. Lại một tính tự mãn tự túc, học chưa ra gì đã lấy làm khôn, tài độ một mẩu con đã cho là giỏi. Vì các tính ấy mà làm cho ngăn trở sự tiến hóa.
(1) so sánh.
(2) người có tài có đức.
(3) tạm hiểu: đạt tới chuẩn mực.
--------------------------------------------------------------------------------
Bóc lột thay cho quản lý (Trần Huy Liệu, Một bầu tâm sự, năm 1927)
Vua đè ép các quan lớn. Các quan lớn đè ép các quan nhỏ. Các quan nhỏ đè ép dân. Cái không khí áp chế chỗ nào cũng nồng nặc khó chịu, xuống đến bậc dân thì không còn dân đạo(2) dân quyền gì nữa. Có miệng không được nói có tai không được nghe, phần nào sưu thuế nặng nề, phần nào quan lại sách nhiễu, biết chết mà không đám tránh, bị ép mà không dám than. Chốn thôn đã thì đường xá khuất lấp, trộm cướp nổi lung tung. Ngoài thành thị một bầy quỷ sống, đua nhau ăn thịt dân uống máu dân. Mỗi năm bão lụt, dân bị chết đói, mỗi năm tật dịch, dân bị đau chết, không biết chừng nào.
(1) lễ tế trời của nhà vua.
(2) đạo, nghĩa gốc là giáo lý, chủ thuyết, dân đạo có thể hiểu là một quan niệm về người dân trong xã hội. | |
| | | Hoàng Hưng Người sáng lập
Tổng số bài gửi : 408 Join date : 27/04/2008 Age : 37
| Tiêu đề: Re: Người Việt xấu xí. Thu Sep 17, 2009 6:39 pm | |
| Thói hư tật xấu của người Việt: Quan không có chuyên môn, hư hỏng cả hệ
Quan trường không có chuyên môn và chỉ giỏi xoay sở (Thân Trọng Huề, Con đường tiến bộ của nước ta, Nam Phong, năm 1918)
Nước ta dùng người thì hoặc lựa chọn ở trong bọn con quan hoặc lấy ở trong hàng khoa mục, mà mấy người khoa mục bất quá văn hay chữ tốt thì đỗ, thế là làm quan. Bình sinh học tập chỉ mấy câu trường ốc văn chương, lúc ra làm quan, thì hình như bổ vào mặt gì cũng giỏi, tưởng quan lại bên Châu Âu chưa có ai toàn tài được thế. Cũng là một người lúc thì bổ giáo chức làm một nhà giáo dục, lúc thì bổ chính chức ra làm một nhà chính trị, lúc thì sung giám đốc công trường làm một nhà công nghệ, lúc thì sung chánh sứ đồn điền làm một nhà thực nghiệp, lúc thì đi quân thứ làm một nhà tướng hiệu, mà hỏi ra thì chẳng có một cái học thức chuyên khoa nào. Quan nước ta như thế trách nào mà chẳng mang tiếng bất tài.
Ngày 31/5/ 1917, Báo Đông Kinh có một đoạn rằng "một tên đầu đảng trộm cướp kiếm cả đời không bằng một ông quan giỏi lấy tiền trong một năm". Ngày 12/7, Báo Hải Phòng có một đoạn rằng "cái căn tính ăn tiền của người An Nam di truyền từ tổ tông, không dễ kể năm kể tháng mà chữa ngay được".
(1) chỗ đóng quân.
(2) tướng tá nói chung. Cả đoạn này có nghĩa chuyển sang làm một quan chức quân sự.
--------------------------------------------------------------------------------
Hư hỏng cả hệ nên không cách gì sửa chữa (Phan Chu Trinh, Thư gửi Chính phủ Pháp, năm 1906)
Cũng có đôi khi thay đổi một vài ông đại thần hoặc là thăng giáng một vài viên quan lại. Cái người bị đuổi đi đã đành là không làm được việc, mà cái người thay chân ấy cũng có phải là người làm được việc đâu?! Cái người bị cách(1), vẫn là gian tham mà cái người được bổ cũng không phải là người liêm khiết! Phương chi hôm nay bị giáng, bị cách, ngày mai lại được thăng được thưởng, ở nơi này can khoản(2) lại đổi đi nơi kia, thì tuy có phạm tội tham, mang tiếng xấu cũng có hại gì đâu.Lâu rồi quen đi, đứa càn rỡ lại càng càn rỡ, chỉ lo đem tiền đi mua quan, đứa biếng lười lại càng biếng lười chỉ biết khoá miệng cho yên việc. Mũ áo thùng thình, ngựa xe rộn rịp, hỏi quan chức thì ông này là đại thần trong triều, ông kia là đại lại(3) các tỉnh, chỉ biết có một việc là ngày đi hội thương(4) hay ra công đường xử kiện , còn hỏi đến việc lợi bệnh(5) trong nước hay là trong một tỉnh thì mơ màng chăng biết một chút gì.
Còn đến việc đút lót người trên, sách nhiễu kẻ dưới thì không cứ là quan to quan nhỏ, đều công nhiên cho là cái quyền lợi của người làm quan đáng được, dẫu có ai bàn nói đến cũng không kể vào đâu.
(1) tức là cách chức, ngược với bổ là giao việc
(2) can khoản: bị vướng vào một tội nào
(3) cũng nghĩa như chức quan lớn
(4) hội họp
(5) tức lợi hại, từ cổ, nay ít dùng
Cần mẫn bất đắc dĩ, không thiết gì, trống rỗng
Cần mẫn một cách bất đắc dĩ (Nguyễn Văn Vĩnh, Xét tật mình, Đông Dương Tạp chí số 12)
Dân An Nam ta có nhiều tật xấu, duy có một tật làm biếng là không ai trách được(1). Chỉ hiềm một điều làm ăn thì cần mẫn, nhưng lại không coi cái cần mẫn ấy là vinh hiển, tựa hồ như một điều bất đắc dĩ phải làm thì làm, chớ không có gì vẻ vang. Hồ(2) nhờ được cày cuốc mà có dư ra thì lo ngay danh miệng(3). Đến lúc lên được ông nọ ông kia, mà có ai nhắc đến phận cày phận cuốc khi xưa thì xem hình như người ta xỉ vả mình.
Cái lý tường sai ấy là do trong bọn thượng lưu, trong các nhà chữ nghĩa lấy cái nhàn làm cái hân hạnh. Chỉ có dăm ba chữ ngồi rung đùi từ sáng đến chiều, còn gạo thổi cơm ở tay ai mà ra, vải may áo ở tay ai mà ra, không nghĩ đến.
(1) ý nói phải nhận là người chăm chỉ.
(2) nếu, giả như.
(3) tiếng hão.
--------------------------------------------------------------------------------
Không thiết chuyện gì (Phạm Quỳnh, Hoàn cảnh, Nam phong, 1924)
Người nước ta, đối đãi với nhau một cách nghiêm khắc, trách bị nhau những chuyện nhỏ nhặt. Ngoài sự hư danh, một tiểu lợi, nhất thiết hoài nghi cả, không thiết chuyện gì: phàm những sự nghiệp lớn lao, những chủ nghĩa cao thượng cho là viển vông, không biết đem lòng ham chuộng, không biết dốc chí theo đuổi.
Tật thứ nhất của dân mình là hay xét nét. Bới lông tìm vết, người nọ dùng trí khôn để dò xét người kia. Xã hội như cái sa-lông, đông khách ngồi, nhưng cứ rụt rè mà nhìn nhau, ngoài những lời thăm hỏi vẩn vơ những câu hàn huyên vô vị, không gây nên được câu chuyện đượm đà hứng thú.
--------------------------------------------------------------------------------
Trống rỗng tầm thường (Nguyễn Văn Vĩnh, Đời sống và khung cảnh An Nam, Báo L’Annam Nouveau, năm 1934)
Trong sự bày biện của chúng ta thiếu hẳn sự hợp lý. Sự thiếu hợp lý này có đôi khi mang lại tính chất muôn màu muôn vẻ mà ờ những nước hiện đại không thể có: họ mắc chứng rập khuôn hàng loạt.
Thế nhưng rút lại thì ở ta cái ấn tượng chung vẫn là một bức toàn cảnh tầm thường. Con người trì trệ, quần áo đồ đạc cũ kỹ và đáng sợ hơn cả là người ta luôn luôn gặp những khung cảnh đẹp mà bên trong rỗng tuếch, những trang trí sặc sỡ tham gia vào một vở kịch nhạt nhẽo, cái nọ triệt tiêu cái kia, do đó mà chỉ có những vai phụ ra múa may để làm ra vẻ đang đóng những vai chính.
| |
| | | Hoàng Hưng Người sáng lập
Tổng số bài gửi : 408 Join date : 27/04/2008 Age : 37
| Tiêu đề: Re: Người Việt xấu xí. Thu Sep 17, 2009 6:49 pm | |
| Bán quẩn buôn quanh, bôi bác giả dối
Tài hèn trí đoản, bán quẩn buôn quanh (Phan Kế Bính, Việt Nam phong tục, năm 1915)
Việc buôn bán của ta không được thịnh vượng bằng các nước khác cũng bởi nhiều cớ. Dân ta nhát tính không dám đi xa. Nhiều người cậy có dấn vốn, chỉ ngồi một xó, cái gì cũng chờ người ta mang đến tận nơi, mua tranh bán cướp với nhau, chớ một bước cũng không dám đi đâu cả. Có đi chăng nữa, thì chẳng qua Hà Nội xuống Hải Phòng, Sơn Tây xuôi Nam Định đã cho là xa xôi, ai bần cùng lắm mới lên đến Lào Cai, Yên Bái hoặc vào đến Bình Định, Sài Gòn. Còn chỉ lo những nước độc ma thiêng, hoặc là phong ba bất trắc, mà quanh năm chí tối bán quẩn buôn quanh.
Phàm làm việc gì có phải dễ dàng mỗi chốc mà thành hiệu(1) ngay được đâu. Ta buôn bán động hơi thấy lỗ vốn một chút hoặc hơi vấp váp điều gì đã ngã lòng ngay. Hoặc đóng cửa, hoặc xin thôi, làm cho việc có cơ tấn tới cũng phải tan không thành nữa.
(1) tức có kết quả.
--------------------------------------------------------------------------------
Bôi bác, giả dối (Thạch Lam, Hà Nội ba sáu phố phường, năm 1994)
Cái chí của người Việt Nam ta cũng khác: qùa muốn bán cho rẻ và nhiều, thích thế để xiêu lòng khách, còn cái phẩm có tất hay không, không quan tâm đến. Bát mằn thắn của người mình có đủ cả rau thơm, xá xíu, đôi khi mấy miếng dồi và một phần chia tám quả trứng vịt. Mằn thắn làm rất te bột, nặn xuề xòa để trông càng to hơn, nhưng nhân thì hết sức kín đáo và nhỏ bé vì được một tí thịt chỗ bàng nhạc(1) mua rẻ của các hàng thịt lậu ôi ở ngoại ô, lúc trút hàng bán rẻ. Nước cũng rất nhiều -nữa, dềnh lên như ao sau trận mưa, nhưng nhạt ví như nước bèo.
Tất cả chỉ bán có năm xu. Tưởng đắt hàng là phải. Thế mà không. Khó lấy nhiều hoa mắt người ta được. Miễn là thức hàng bán xứng với đồng tiền, đừng lừa dối người mua, của ngon thì người ta ăn đắt rẻ không kỳ quản. Đó là một sự thức giản dị trong nghề buôn bán mà tiếc thay nhiều nhà buôn người mình không biết đến, làm tồi bán rẻ rồi đánh lừa được người mua thì lấy làm sung sướng.
(1) bạc nhạc, chỉ chỗ thịt dai không có nạc.
Quan lớn như hạ lưu, Ảo tưởng thoái hóa, trì trệ bất lực
Quan cao chức lớn cũng sống như kẻ hạ lưu (Tản Đà, Đông Pháp thời báo, năm 1927)
Nghĩ như những người quan cao chức lớn, cửa rộng nhà to, mũ áo đai cân, mày đay kim khánh mà gian tham xiểm nịnh, bất nghĩa vô lương hút máu hút mủ của dân thứ để nuôi béo vợ con, như thế có phải là hạng người hạ lưu không, tưởng công chúng cũng đều công nhận. Lại nghĩ như những người tây học nho học, học rộng tài cao duyệt lịch giang hồ, giao du quyền quý mà quỷ quyệt giả trá, bôi nhọ ra hề, lấy văn học(1) gạt xã hội để mua cái hư danh, phụ xã hội thân người ngoài(2) để kiếm bề tư lợi , như thế có phải là hạ lưu không, tưởng công chúng cũng đều công nhận.
(1) văn học ở đây tức là học vấn nói chung.
(2) người ngoài: chỉ người Pháp cũng như người Tàu là các thế lực lúc ấy đang có nhiều ảnh hưởng.
--------------------------------------------------------------------------------
Từ ảo tưởng tới thoái hóa (Phan Khôi, Báo Thần chung, năm 1929)
Mấy trăm năm nay, thuyết minh đức tân dân(1) làm hại cho sĩ phu nhiều lắm, nhất là trong thời đại khoa cử thịnh hành. Buổi còn đang đi học thì người nào cũng nhằm vào hai chữ tân dân đó mà ôm những hy vọng hão huyền, cứ tưởng rằng mình ngày sau sẽ làm ông nọ bà kia, sẽ kinh bang tế thế, rồi mình sẽ thượng trí quan, hạ trạch dân, làm nên công nghiệp(2) ghi vào thanh sử(3) đến đời đời, không ngờ thi không đậu hay đậu mà không làm ra trò chi, thì trở nên thất vọng, thiếu điều ngã ngửa người ra, tay chân xuôi lơ và bủn rủn. Còn người khác đắc thời, thi đậu ra làm quan thì lại ỉ rằng bấy lâu mình đã có cái công phu minh đức, nghĩa là mình đã học giỏi rồi, thì bây giờ cứ việc thôi sờ học ư sở hành, chớ có lo chi. Bởi vậy nên có những ông thượng thư bộ hộ mà làm chẳng chạy bốn phép toán, thượng thư bộ binh mà cả đời chẳng biết đến cái lưng con ngựa ra sao cái cò khẩu súng là gì. Mà rồi ông quan nào cũng như thượng đế cả, nghĩa là toàn trí, toàn năng(!).
(1) trích từ câu đầu tiên của sách Đại học, có nghĩa làm sáng đức và khiến dân luôn luôn đổi mới.
(2) cũng tức là sự nghiệp.
(3) thanh sét thời cổ ở Trung Quốc dùng thẻ tre để chép sử, nên lịch sử thường được gọi là thanh sử.
-------------------------------------------------------------------------------
Trì trệ và bất lực (Lương Đức Thiệp, Việt Nam tiến hóa sử, năm 1944)
Bị ý thức hệ nho giáo bảo thủ lung lạc, bị nguỵ thuyết của bọn Tống nho đưa lạc nẻo, bị chế độ thi cử chi phối, đẳng cấp nho sĩ Việt Nam không còn một chút hoạt lực(1) nào, không còn được một tính cách cấp tiến nào nữa. Bởi vậy họ đã chống tiến hoá chống cải cách. Phụ hoạ với triều định, họ đã lấy cái học bã giả(2) của Tống nho dựng một bức trường thành ngăn các trào lưu triết học khác không cho tràn tới địa hạt tri thức do họ giữ đặc quyền.
…"Thiếu độc lập về tư tưởng, hoàn toàn phục tùng cổ nhân Trung Hoa về cả mặt tình cảm, quá câu nệ về hình thức thơ Tàu, đẳng cấp Nho sĩ Vệt Nam chỉ sản xuất ra được những lối thơ nghèo nàn. Nhiều tập thơ mài giũa công phu nhưng không chút sinh khí.
Qua ngay hình thức của thơ, ta cũng thấy rõ tinh thần bảo thủ của đẳng cấp Nho sĩ và sự bất lực của đẳng cấp này trong mọi công cuộc sáng tạo xã hội có tính chất cấp tiến.
(1) sức sống.
(2) thường nói bã chả, với nghĩa cái phần dư thừa sau khi lấy hết tính chất và nát ngấu nhão nhoẹt. | |
| | | Hoàng Hưng Người sáng lập
Tổng số bài gửi : 408 Join date : 27/04/2008 Age : 37
| Tiêu đề: Re: Người Việt xấu xí. Thu Sep 17, 2009 6:53 pm | |
| Tầm thường, Phù phiếm, Hiếu danh Chỉ biết theo đuổi những giá trị tầm thường (Dương Bá Trạc, Tiếng gọi đàn, năm 1925)
Danh dự là có tài có đức có công nghiệp(1) có khí tiết thật, còn kẻ chạy theo hư vinh chỉ lo đâm đầu đâm đuôi chạy xuôi chạy ngược để cầu cạnh chen chúc, làm sao cho có được cái mã ngoài ấy thì tất là lộn sòng về cái chân giá trị. Nào trong xã hội mấy ai là người biết cân nhắc so sánh, mà vẫn thường lầm cái hư vinh là cái danh dự thực! Hỏi trọng gì, ắt là võng lọng cân đai, hỏi quỷ ai, tất là ông cả bà lớn, hỏi cái gì là sang, tất là xe ngựa lâu đài ngọc ngà gấm vóc, hỏi cái gì là sướng , tất là ăn trên ngồi trốc, nhận lễ thu tiền. Rồi xu phụ khéo luồn lọt bợm để cẩu vinh, ấy là người giỏi, giết người tợn tâng công khỏe để cầu vinh, ấy là người tài, lắm quan thày tốt, thần thế lo gì cũng xong xin gì cũng được, ấy là anh hùng, nạt con em ức hiếp hàng xóm, anh làm ông nọ, em lâm ông kia, ấy là nhà có phúc, khao phẩm hàm, vọng(2) ngôi thứ, ấy là vẻ vang, cổ kim khánh, ngực mề đay ấy là danh giá. Một người như thế, trăm người đều như thế, đời trước như thế mà đời sau cũng như thế nới!
(1) cũng tức là sự nghiệp.
(2) nộp tiền hay lễ vật cho làng để có ngôi thứ. --------------------------------------------------------------------------------
Thiết thực nhưng lại phù phiếm (Đào Duy Anh, Việt Nam văn hóa sử cương, năm 1938)
Về tính chất tinh thần thì người Việt Nam đại khái thông minh, nhưng xưa nay thấy ít người có trí tuệ lỗi lạc phi thường. Sức ký ức thì phát đạt lắm, mà giàu trí nghệ thuật hơn trí khoa học, giàu trực giác hơn luận lý(1). Phần nhiều người có tính ham học, song thích văn chương phù hoa hơn là thực học, thích thành sáo(2) và hình thức hơn là tư tưởng hoạt động. Não tưởng tượng thường bị não thực tiễn hoà hoãn bớt, cho nên dân tộc Việt Nam ít người mộng tưởng mà phán đoán thường có vẻ thiết thực.
Tính khí cũng hơi nông nổi, không bền chí, hay thất vọng, hay khoe khoang trang hoàng bề ngoài, ưa hư danh và thích chơi cờ bạc. Não sáng tác(3) thì ít, nhưng mà bắt chước, thích ứng , dung hoà thì rất tài. Người Việt Nam lại rất trọng lễ giáo, song cũng có não tinh vặt, hay bài bác chế nhạo.
(1) tự nhiên cảm thấy hơn là do suy luận mà biết.
(2) những gì đã quá quen.
(3) nói theo cách nói hiện thời, tức "sức sáng tạo" nói chung. --------------------------------------------------------------------------------
Hay tự ái và hiếu danh (Nguyễn Văn Huyên, Văn minh Việt Nam, năm 1944)
Người Việt rất hay tự ái. Không mấy khi họ thú thật nỗi cực nhọc từng phải chịu. Nhưng tính tự ái thường đi đôi với tính khoe khoang. Họ dễ kiêu căng. Ở nông thôn vấn đề thể diện có một tầm quan trọng xã hội hàng đầu. Người nông dân rất thích nổi bật trước mắt kẻ khác và thích nên danh nên giá. Để chiếm được một vị trí tốt giữa những người trong cùng cộng đồng, nói chung là để thỏa mãn tính hiếu danh, họ chẳng lùi bước trước một điều gì. Họ sẵn sàng nhịn hẳn thịt cá và các món ăn ngon lành trong cả năm, hay mặc những bộ quần áo vá chằng vá đụp, chỉ cốt để có tiền tổ chức những bữa khao vọng linh đình nhân được thụ phong một loại bằng sắc nào đó.
Suy đồi, Nghi ngờ - Hại nhau, Cách chống tiêu cực Sự suy đồi toàn diện (Phan Chu Trinh, Thư gửi Chính phủ Pháp, năm 1905)
Trong khoảng vài mươi năm nay, các bậc đại thần ăn dầm nằm dìa ở chốn triều đình, chỉ biết chiếu lệ cho xong việc, quan lại ở các tỉnh thì chỉ lo cho vững thần thế mà hà hiếp bóp nặn ở chốn hương thôn, đám sĩ phu thì ganh nhau vào con đường luồn cúi hót nịnh, không biết liêm sỉ là gì, bọn cùng dân bị nặn bóp mãi mà máu mủ ngày một khô, không còn đường sinh kế nữa. Đến bây giờ thì thế sự hư hỏng, nhân dân lìa tan, phong tục suy đồi, lễ nghĩa bạt hoại, một khu đất bốn mươi vạn dặm vuông, một dân tộc hơn hai mươi triệu người lại sắp ở vào cái địa vị bán khai mà quay về cái địa vị dã man.
(… ) Nước Nam đã lâu nay học thuyết sai lầm, phong tục hư hỏng, không có liêm sỉ, không có kiến thức... Trong một làng một ấp cũng cấu xé lẫn nhau, cùng nòi cùng giống vẫn coi nhau như thù hằn, có dẫu ai có muốn lo toan việc lớn, chưa kể rằng không có chỗ mà nương thân, không có khí giới mà dùng, không có tiền của mà tiêu, giá phỏng Chính phủ(1) cho mượn trăm nghìn khẩu súng, cấp đất vài tỉnh cho ở, không thèm hỏi đến, tha hồ muốn làm gì thì làm, chẳng qua vài năm nếu không báo thù lẫn nhau thì cũng tranh giành địa vị với nhau, nếu không cướp đoạt tiền tài thì cũng giành giật tướcvị, tự chém giết nhau đến chết hết mới thôi, quyết không thể sống nổi trong thế giới này, lại còn chống cự ai được nữa.
(1) đây là Chính phủ thực dân Pháp --------------------------------------------------------------------------------
Hay nghi ngờ và làm hại nhau trong công việc (Phan Bội Châu, Việt Nam quốc sử khảo, năm 1908)
Người Châu Âu, người Nhật Bản làm việc gì cũng hợp đoàn mà làm. Tôi thường thấy người Nhật Bản lúc bản tính công việc quan trọng họ tin cậy nhau hơn ruột thịt. Còn như nước ta thì không phải không muốn làm nên việc, nhưng cùng làm việc thì nghi ngờ nhau, không phải không muốn thành công, nhưng cùng lập công(1) thì ghét bỏ nhau. Nếu chịu nghĩ kỹ thì tại sao ta lại không biết dằn lòng mà theo nhau, không biết đem lòng thành thật mà đối đãi với nhau, lại cứ nghi ngờ ghét bỏ nhau, thật là ngu quá không thể hiểu được.
(1) ngày nay lập công có nghĩa lập được chiến công chiến tích , hồi đầu thế kỷ XX được hiểu đơn giản là làm mót công việc nào đó...
--------------------------------------------------------------------------------
Cách chống đối tiêu cực(Lương Đức Thiệp, Việt Nam tiến hóa sử, năm 1944)
Người Việt ít khi chịu chết vì tín ngưỡng hay vì một vĩ nhân nào đó đã chủ trương trái quyền lợi của họ. Gặp lúc phải dồn vào thế yếu, họ chống lại ngay bằng phương pháp tiêu cực: chỉ trích và châm chọc.
Luôn luôn bị áp bức về kinh tế và chính trị, cuộc sinh hoạt tinh thần thường lẩn cả vào trong tâm tưởng nên sức phản ứng của tình cảm và tư tưởng không mau lẹ. Tính ưa hư danh là một tật phổ thông của những người hằng cố gắng tìm vượt lên trên địa vị hiện tại của mình. Tật cờ bạc, do cuộc sống chật hẹp gây nên, cũng là một tật phổ thông khác. | |
| | | Hoàng Hưng Người sáng lập
Tổng số bài gửi : 408 Join date : 27/04/2008 Age : 37
| Tiêu đề: Re: Người Việt xấu xí. Thu Sep 17, 2009 6:56 pm | |
| Ai mạnh thì theo; Biếng nhác, vô cảm
Ai mạnh thì theo, bỏ hết liêm sỉ (Phan Khôi, Luận về khí tiết, báo Hữu Thanh, năm 1923)
Sĩ phong(1) nước ta, suy đồi đi là tự đời Lê Trung Hưng về sau. Lúc bấy giờ các Vua nhà Lê vẫn cầm quyền mà họ Trịnh dám dấy lên cướp quyền, quan lại và sĩ dân trong nước đều theo họ Trịnh. Hóa nên cái tâm lý sĩ phu thời ấy có hai đàng: thờ Vua Lê để tránh tiếng phản quân, thờ họ Trịnh để kiếm đường thực lợi. Ban đầu chắc cũng có người áy náy trong lòng, về sau tập thành quen, không còn biết thế nào là sỉ nhục.
Một người như thế thì trăm nghìn người hùa theo, người trên như thế thì người dưới bắt chước theo, thành ra cả một nước đều bỏ mất đại nghĩa, quên mất liêm sỉ, mà đổ xô nhau vào vòng danh lợi. Từ đó về sau, người mình trở nên mềm như con bún, không biết vua là gì, không biết nước là gì, hễ ai mạnh thì theo. Lòng tự trọng của người mình như ngọn lửa đã tắt, không còn bừng lên, như hạt giống bị ẩm, không còn nứt lên được. Lại thêm cái kiểu chuyên chế từ xưa đến nay, cứ ở trên đè xuống ở dưới(2) lên, làm cho nhân dân ngày một đê hèn ngày một yếu ớt. Lòng tham lợi mạnh hơn lòng tư kỷ(3) thì luồn cúi lạy lục mấy cũng chẳng từ, ưa cái sống đục hơn cái thác trong, thì mặt dạn mày dày đâu có quản.
(1) tương tự như một thứ khí hậu trên phương diện tinh thần.
(2) theo Tự vị An Nam Latin (1772 - 1773) đợ có một nghĩa cổ "trao của tin cho ai”, ở đây đợ lên tạm hiểu là nhẫn nhục chấp nhận.
(3) tự ý thức về cá nhân mình. --------------------------------------------------------------------------------
Biếng nhác, vô cảm, lẩn tránh (Nguyễn Văn Huyên, Văn minh Việt Nam, năm 1944)
Hiện tượng quá đông dân và thường xuyên thiếu việc làm khiến cho nhiều người có tâm lý sống ngày nào biết ngày ấy. Ở thôn quê, những kẻ có chút tiền bạc hoặc có đủ ruộng chỉ còn thích ăn không ngồi rồi.
Xét về phương diện tinh thần, xu hướng biếng nhác này càng trầm trọng thêm bởi nền giáo dục cổ lỗ và chưa bao giờ có phương pháp. Thành ra có sự lười biếng về trí óc, có xu hướng dễ dàng chấp nhận hết thảy và bắt chước hết thảy. Sau khi chất đầy trí nhớ các loại kinh sách, nhà nho xưa kia chẳng còn nghĩ đến chuyện trau dồi trí tuệ nữa. Họ thường già trước tuổi. Hoặc là họ nhẫn nhục chịu đựng cốt không để ai đó ganh ghét mà kiếm chuyện lại thôi. Hoặc là họ sa vào thói chơi ngông đôi khi cũng tinh tế đấy, nhưng dễ làm cạn kiệt cái năng lực phát minh cũng như năng lực lập luận khoa học.
Có những nhà quan sát nước ngoài nhận xét người Việt hay trộm cắp và dối trá. Trong một thời gian dài, người dân nước này chỉ được nhận một nền cai trị kém cỏi, trong đó thấm sâu chính sách ngu dân. Cá nhân con người luôn luôn bị săn đuổi, họ buộc phải bao quanh mình một tấm màn bí mật. Làng xã cũng vậy, trong quan hệ với chính quyền trung ương họ cố giữ lấy một thái độ nếu không độc lập thì cũng ương bướng bất phục.
Giả dối, khao vong nặng nề
Cái gì cũng giả (Ngô Tất Tố, Báo Thời vụ, năm 1938)
Đọc báo hàng ngày, thỉnh thoảng lại thấy xã hội Vệt Nam sản ra những bọn người giả. Giả mật thám, giả lính đoan, giả làm người của Sở nọ, Sở kia. Hạng người nào cũng có kẻ giả, trừ ra một bọn ăn cướp.
Có lẽ trong các thực đơn của thế giới, không đâu có nhiều món giả bằng nước An Nam. Cũng thì một miếng thịt, người ta bày ra đủ trò: nấu với tiết gọi là giả trâu, nấu với riềng mẻ gọi lả giả cầy, nấu với hành răm gọi là giả chim, nấu với đậu nghệ gọi là giả ba ba, đốt đi rồi bóp với thính đỗ tương thì lại bảo là giả dê.
Đồ ăn là thứ sẽ ăn vào miệng, hễ qua hàm răng thì nó là lợn hay trâu, hay gì gì nữa, cái lưỡi sẽ biết tức thì, thế mà chúng ta cứ làm giả, thì có khác chi xúi giục nhau rằng: trên đời không có cái gì mà không giả được? Cái nạn nhiều hạng người giả từ đấy mà ra. --------------------------------------------------------------------------------
Những cuộc khao vong nặng nề vô nghĩa (Phan Kế Bính, Việt Nam phong tục, năm 1915)
Người thi đỗ, người được bổ làm quan, người được phẩm hàm... đều phải khao vọng. Nhà vua cũng đã đặt lệ giản tiện cho người ta dễ theo. Đại để như đỗ tú tài thì khao một con gà, một đĩa xôi và ba quan tiền, đỗ cử nhân thì khao một con lợn, một mâm xôi và năm quan tiền. Nhưng ngặt vì tục dân đã quen, chiếu lệ ra mà làm thì họ cung phải chịu, nhưng tình ý không thỏa hiệp thì họ sinh ra lắm sự ngăn trở. Họ có câu rằng "Phép vua thua lệ làng" thực là một lời nói đáng khinh bỉ.
Lại ngán nỗi cho hạng kỳ mục, động ai có việc gì mới mọc đến ăn uống no say rỗi thì giở ra cách chơi bời, thuốc phiện hút khói um nhà, bài bạc đùa cười rầm rĩ, ấy thế là thỏa thuê, ấy thế là hể hả. Giá đám nào kém thì đã thấy lắm kẻ hậm hà hậm hực, tiếng lọ tiếng kia, làm cho người ta khó chịu.
Than ôi! Ngoài chốn hương thôn không còn biết trời đất là đâu, người sự ăn uống không còn có sự nghiệp gì, như thể thì trách làm sao mà dân chẳng hèn, nước chẳng nhược? | |
| | | Hoàng Hưng Người sáng lập
Tổng số bài gửi : 408 Join date : 27/04/2008 Age : 37
| Tiêu đề: Re: Người Việt xấu xí. Thu Sep 17, 2009 7:01 pm | |
| Cam chịu bất công, thù ghét thay đổi
Sự tự do, cam chịu bất công (Hoàng Đạo, Bùn lầy nước đọng, 1939)
Đế vương xưa chỉ dạy thờ người trên và biết nghĩa vụ của mình còn quyền lợi không cần biết đến mà cũng không có nữa. Tục ngôi thứ đã in rất sâu vào óc người dân quê, đến nỗi những tư tưởng tự do phóng khoáng từ phương Tây truyền sang, đến lũy tre xanh là dừng lại, biến mất như một ngọn gió mát tan vào một bầu không khí nồng nực nặng nề.
Tục vị thứ hóa ra tục sùng bái nhân tước(1) một cách u ám đê hèn, và thay vào óc kính thượng là một óc nô lệ đáng khinh.
Tự do cá nhân và hết thảy các tự do ở bên ta và nhất là ở nơi thôn quê chỉ là một câu chuyện hoang đường. Cũng vì thiếu tự do - nếu ta không kể sự tự do phục tùng và tự do uống rượu - nên tình cảnh dân quê về phương diện tinh thần mới có vẻ điêu linh tàn tạ. Cũng vì thiếu tự do nên người ta đối với những công cuộc cải cách mới lạ thường có cái não ngờ vực. Sức phản động dìm dập dân quê vào nơi ngu tối, tạo thành cho họ cái tính nô lệ, cái căn tính chịu đựng trước những sự tàn ngược ức hiếp.
(1) Vị thứ tức ngôi thứ trong làng, nhân tước là những tước vị do con người đặt ra. --------------------------------------------------------------------------------
Thù ghét mọi sự thay đổi (Đào Duy Anh, Việt Nam văn hóa sử đại cương, 1950)
Chúng ta không có những nhà tư tưởng xây dựng được những công trình huy hoàng phong phú. Chúng ta chỉ cốt sống được, và trong địa hạt sinh hoạt vật chất cũng như trong địa hạt tư tưởng nghệ thuật, chỉ nghĩ đến cái gì có thể giúp cho mình thích ứng với hoàn cảnh ác liệt, để theo đuổi một cuộc sống tầm thường kín đáo mà thôi. Bởi thế nếu thỉnh thoảng có một người nào có khí độ phóng khoáng, không chịu ép mình làm nô lệ thánh hiền mà vượt ra ngoài vòng lề lối - mới vượt ra ngoài chứ chưa chắc đã xây dựng được cái gì mới - thì xã hội đã xem là quái vật mà không dung. Hoặc giả khi có nhà nghệ thuật thực hiện được một cái gì to lớn phi thường như pho tượng thánh Trấn Vũ ở Hà Nội(1) chẳng hạn thì cái mái nặng nề của ngôi đền lại đè bẹp nó xuống ở trong bóng tối mò của gian chính tẩm(2). Những cái thái độ và quan niệm xuất kỳ(3) ấy thường bị cái tính thiết thực của dân tộc kìm hãm hay bài xích ngay.
(1) pho tượng này cao 3, 95m, đặt ở chùa Quán Thánh. (2) gian nhà to rộng ở giữa. (3) bày ra kế lạ, có những tư tưởng mới mẻ.
Mong yên lành, hóa ra bảo thủ; Không hình thành dư luận sáng suốt Mong tìm yên lành, hóa ra bảo thủ (Quốc dân độc bản, tài liệu do Đông Kinh Nghĩa thục soạn năm 1907)
Trải qua các đời, dân ta chịu sự cai trị của vua quan, không có thể dùng tâm và mưu cho nước, nước tự nó sống còn. Trên có vua hiền tướng giỏi thì tạm thời yên ổn. Bất hạnh là không có vua hiền tướng giỏi thì cả nước loạn ly, nhân dân lầm than. Từ xưa đến nay, sở dĩ có ít ngày được bình trị(1), mà có lắm cuộc loạn ly, nguyên nhân là ở đó.
Dân nước ta có ưu điểm là an phận, thành thực, nhẫn nại. Không biết lợi dụng những ưu điểm ấy thì sẽ sinh ra ba cái tệ. Một là bảo thủ mà không biết tiến thủ. Hai là dựa vào người mà không biết tự lập. Ba là yên thân mình nhà mình, mà không biết ái quần ái quốc. Không trừ ba cái tệ đó thì dù có vua hiền tướng giỏi cũng chỉ bình trị nhất thời mà thôi, sao có thể chống chọi với các nước lớn được. Ngày nay phải nghĩ đến tự cường thì ngày sau mới tự cường được.
(1) xã tắc trong cảnh thái bình, có trên cô dưới, trật tự kỷ cương đâu vào đấy.
--------------------------------------------------------------------------------
Từ chối mọi cuộc cải cách (Nguyễn Văn Huyên vấn đề nông dân Việt Nam ở Bắc Kỳ năm 1939)
Tầng lớp trên ở nông thôn, các kỳ mục(1) trong làng, phản đối mọi cuộc cải cách thực sự và sâu sắc. Đây là những người đã trả giá trong hai mươi, ba mươi, bốn mươi năm để củng cố địa vị xã hội của mình. Họ đã ở tuổi có thể bình thản ngồi xếp bằng trên những manh chiếu trải giữa đình để đánh giá cung cách người ta phục vụ họ ăn uống ra sao. Nếu có ai dám nghĩ đến chuyện thực hiện một cuộc cải cách nào đó thì người ấy chắc chắn chuốc lấy những mối hiềm thù không thương xót.
(1) những người có điển sản hoặc từng có phẩm hàm và chức vụ tập hợp lại làm nên hội đồng kỳ mục, có nhiệm vụ đề ra các chủ trương chung của làng xã.
--------------------------------------------------------------------------------
Không hình thành nổi một dư luận sáng suốt (Vũ Văn Hiền việc cai trị ở thôn quê, năm 1945)
Ngoài tinh thần độc tôn bè đảng, còn một trở lực nữa ngăn cản mọi công việc cải cách ở thôn quê tà dư luận trong làng, một thứ dư luận mạnh mẽ, ác nghiệt và mù quáng. Nhiều việc cải cách đã quyết định rồi đành bỏ dở chỉ vì người thừa hành sống trong làng xóm, không thể chịu đựng được những dị nghỉ chế giễu mà hàng chục hàng trăm người nhắc lại ở khắp đầu làng cuối ngõ. Đã không có quyền bắt mọi người im, lại sống luôn với những người đó, hương chức tránh sao nổi ảnh hưởng của dư luận và sau vài ba tháng làm việc, người hăng hái đến đâu cũng đành “dĩ hòa vi quý", bỏ hẳn những ý định của mình để sống theo nếp cũ.
| |
| | | Hoàng Hưng Người sáng lập
Tổng số bài gửi : 408 Join date : 27/04/2008 Age : 37
| Tiêu đề: Re: Người Việt xấu xí. Thu Sep 17, 2009 7:05 pm | |
| Tùy tiện giao tiếp, thạo sử người, chẳng học ai cả
Tùy tiện, cẩu thả trong giao lưu, tiếp xúc(Phan Chu Trinh, nước Việt Nam mới sau khi Pháp Việt liên hiệp, 1912)
“Xét nước ta đời thụ phong Trung Quốc chỉ là chính sách ngoại giao cho nên coi là trò chơi, không coi là vẻ vang. Kẻ lấy Trung Quốc làm ỷ lại, ắt là vào thời cuối(1): vua nhác, tôi nịnh, binh bị không sửa sang, coi họ như cha mà quên điều nanh ác. Thời cuối các đời Trần, Lê đều có, mà triều ta(2) lại càng nhiều. Sứ thần ngày xưa làm nhục được người Trung Quốc coi như vinh dự. Những kẻ đi việc sứ đời sau lấy việc được một bài thơ, bài văn, một lời than , tiếng cười của sĩ phu Trung Quốc trở về để khoe khoang với bạn bè làm vẻ vang. Mặt này lại là một điều suy sút của sĩ phu nước ta.
(1) tức giai đoạn suy tàn của một triều đại.
(2) triều ta đây tức là nhà Nguyễn.
--------------------------------------------------------------------------------
Thạo sử người hơn sử mình (Hoàng Cao Khải, Việt sử yếu, 1914)
Sĩ tử khắp nước ta làu thông kinh sách mà không biết đất đai của nước ta và nòi giống dân ta như thế nào. Họ chỉ biết Hán Cao. Tồ, Đường Thái Tông mà không biết Đinh Tiên Hoàng, Lê Thái Tổ ra làm sao. Họ chỉ biết Khổng Minh, Địch Nhân Kiệt mà không biết các bề tôi Tô Hiến Thành, Trần Quốc Tuấn thờ vua giúp nước như thế nào. Họ chỉ biết núi Thái Sơn cao chót vót, sông Hoàng Hà sâu thăm thẳm, nhưng không hề hay biết núi Tản Viên từ đâu tới, sông Cửu Long ở Nam Kỳ - phát nguyên từ nơi nào.
Ưa chuộng phong tục nước ngoài cho nên bao nhiêu nghi lễ về quan hôn tang tế (1), chúng ta đều bắt chước người Trung Hoa cả. Lại còn lấy kỹ nghệ nước ngoài làm ưa thích. Đã không chịu học hỏi cách biến chế, óc sáng kiến của họ, mà tại đi tiêu thụ hàng hóa giúp cho họ. Đa số những vật liệu như đồ sứ, hàng tơ, lụa, hàng thêu, hàng đoạn(2)... chúng ta đều đi mua sắm từ bên Trung Quốc về dùng. Rồi dần đà lâu ngày, linh hồn của dân tự nhiên bị đổi dời, trí não của dân ta tự nhiên bị bưng bít mà ta không hề biết, chỉ vì cái cớ chúng ta cứ chuyên trọng Bắc sứ(3) mà thôi.
(1) các việc thuộc về đình đám, ma chay, cưới xin…
(2) hàng dệt bằng tơ, mặt bóng mịn
(3) tức lịch sử Trung Hoa. --------------------------------------------------------------------------------
Ai cũng học mà chẳng học ai cả (Ngô Đức Kế, Nền quốc văn - Tạp chí Hữu Thanh, 1924)
Người nước mình từ xưa đến nay, cái tâm lý đối với việc học là học mà đi thi, đi học cũng như đi buôn bán hay làm nghề, cái mục đích chỉ là cầu lợi mà thôi. Tiếng rằng nước mình tôn sùng đạo Khổng, song đó là vì học đi thi mà tôn sùng, chứ không phải vì tôn sùng mà phải học. Cho nên ngày trước triều đình thì Hán tự thì người mình lo học Hán tự để lấy ông cử, ông nghè. Ngày nay Chính phủ bảo hộ thi Pháp văn thì người mình lo học Pháp văn để lấy ông tham ông phán…
Học dở, dốt thông, vội vã bắt chước Dễ học cái dở hơn cái hay (Lương Dũ Thúc, Nông cổ mín đàm, 1904)
Người bổn quốc chúng ta lúc này cũng đã có nhiều người thành thị lịch lãm về sự dinh dãy (1), cách ở ăn sạch sẽ, về lệ luật phép tắc thông thạo nhiều; tôi chỉ không hiểu cho rõ làm sao mà thông thái mau hết mức về việc xa xỉ, về lý tự bạo (2), mà không thông thái về cách tính toán, về phép thương cổ (3); không có thấy bày ra hãng buôn nào cho lớn làm nghề nào cho to; vụ lợi (4) thì không làm, còn vụ hại thì thích lắm. Trong năm mười năm tới nữa mà cứ không buôn lớn và không học nghề chi cho giới, thì kẻ nghèo khó còn thặng (5) trên số ngàn nữa.
(1) chỉ lối sống sang trọng
(2) chỉ tham vọng muốn trở nên ông kia bà nọ.
(3) buôn bán.
(4) việc sinh lợi
(5) dư ra
--------------------------------------------------------------------------------
Xấu làm tốt dốt làm thông (Ngô Đức Kế, tạp chí Hữu Thanh, 1923)
Chúng ta thừa thụ cái cơ nghiệp của tiền nhân, sinh nở phồn thực ở đất nước này đã mấy nghìn năm đến nay lại gặp lúc ngọn triều tiến hoá tràn khắp mọi nơi, thế mà không làm sao bước tới
theo người. Mà chỉ mê mẩn tối tăm, ngu hèn dốt nát đói nghèo khốn khổ, không dám ló đầu ra với mọi người. Nhất ghét là xấu làm tốt dốt làm thông, mượn cái văn minh của người mà trang sức bề ngoài, kỳ thực trăm việc chẳng ra gì, mà nhân cách một ngày một hư, phong tục một ngày một nát; ngọc vàng bề mặt, thối nát bề trong, văn minh chẳng thấy đâu mà càng ngày càng thêm man rợ.
Nghĩ thấy Tổ quốc mình như thế, thôi thì không có việc mà bàn không có chuyện mà chép, mà cũng không bàn làm gì không chép làm gì.
--------------------------------------------------------------------------------
Bắt chước vội vã thêm gây hại (Trần Trọng Kim, Nho giáo, 1930)
Tính bất chước vốn là tính tự nhiên của loài người, dẫu ở nước nào cũng thế cả. Nhưng giá ta có sẵn cái tinh thần tốt rồi chỉ bắt chước lấy những điều có bổ ích thêm cho tinh thần ấy thì thật là hay lắm. Chỉ hiềm vì mình để cái tinh thần của mình hư hỏng đi, mà lại mong bắt chước sự hành động của người ta thì sự bắt chước ấy lại làm cho mình dở hơn nữa. Vì đã gọi bắt chước là chỉ bắt chước được cái hình hài bề ngoài mà thôi còn cái tinh thần ở trong, phi (1) lâu ngày nhiễm (2) lấy được mà hóa (3) đi, thì khó lòng mà bắt chước được. Thành thử bao nhiêu những sự bắt chước chỉ là làm loạn cả tính tình tư tưởng và phong tục của mình. Có lắm người vọng tưởng (4) rằng mình cố bắt chước được người ngoài là mình làm điều có ích cho sự tiền hóa của nòi giống. Không ngờ rằng sự bắt chước vội vàng quá lại thành cái độc gây ra các thứ bệnh cho xã hội. Mà sự lầm lỗi ấy chỉ một ngày một thêm ra chứ không bớt đi được.
(1) không phải.
(2) thâm nhập.
(3) thay đổi. Từ điển Hán Việt của Thiều Chửu ghi: phàm vật này mất đi mà vật kia sinh ra gọi là hoá.
(4) vọng tưởng: nghĩ lầm | |
| | | Hoàng Hưng Người sáng lập
Tổng số bài gửi : 408 Join date : 27/04/2008 Age : 37
| Tiêu đề: Re: Người Việt xấu xí. Thu Sep 17, 2009 7:09 pm | |
| Thô tục, vô duyên, luộm thuộm
Chửi rủa quát mắng (Nguyễn Văn Vĩnh, Ăn nói thô tục, Đông dương Tạp chí, năm 1914)
Nói tục, nói bẩn chắc hẳn không người nước nào bằng người An Nam ta. Lắm câu chửi rủa của ta không tiếng nước nào dịch nổi, giả sử những người nói ra có nghĩ đến nghĩa từng tiếng thì đứa nặc nô(1) cũng phải đỏ mặt đến lòng trắng mắt.
Thử ngẫm mà xem, những câu ấy có nghĩa lý gì đâu. Bảo người ta ăn những gì thì có nghĩa lý nào? Gọi ông cha mấy đời người ta lên mà chém mà vằm cũng không có nghĩa gì cả. Người ngay thật có ai sợ những câu chửi rủa ấy đâu? Mà người mở mồm nói những tiếng dơ bẩn ấy, thì thực là xấu cho cái miệng quá, ra ngay con người thô tục.
(1) nặc nô: người làm nghề đi đòi nợ thuê ngày xưa. --------------------------------------------------------------------------------
Tiếng cười vô duyên (Phan Khôi, Phụ nữ tân văn, năm 1931)
Có một phần đông người Pháp ở đây, ta hằng ngày thấy họ, cũng có thể chiêm nghiệm được một dân tộc. Ví dụ như gặp khi trời mưa, đường trơn có người nào đó bất kỳ đi vô ý mà trượt té, bấy giờ có năm ba người Pháp đứng đó họ có cười không? Tôi và nhiều người như tôi, dám chắc rằng họ chẳng những không cười mà còn chạy lại để đỡ người bị té ấy lên nữa. Còn như con rồng cháu tiên ta, tôi cầm chắc rằng trước khi chạy lại đỡ, ta phải cười một chặp cho no nê đã.
--------------------------------------------------------------------------------
Ăn ở luộm thuộm (Phan Kế Bính, Việt Nam phong tục, năm 1915)
Nhà nào ở ta cũng chỉ những gỗ ngổn ngang, trên không có thừa trần(1), dưới ít khi lát gạch, chung quanh tường kín bốn bề, ít cửa thông hơi thật không hợp cách vệ sinh. Trong nhà không mấy nhà phân biệt phòng nào là phòng ăn, phòng nào là phòng ngủ, chỗ nào là chỗ làm việc, chỗ nào là chỗ ngồi chơi. Nhà nào cũng chỉ thấy bày la liệt những ghế những bàn những giường những phản, có khi ăn ở đấy ngủ ở đấy, làm việc ngồi chơi cũng ở đấy.
Đường mỹ thuật làm cửa làm nhà của ta còn kém mà tính người lại cẩu thả nhiều, quý hồ thế nào cho dung thân được thì thôi, chứ không quản gì đến hoa mỹ. Các nơi nhà quê, nhiều nhà nào trổ nào chạm, chẳng qua chỉ cho nhện dễ chăng võng, kê lắm giường, lắm phản, chẳng qua chỉ để cho mối xông đất. Mái tụp hụp như chuồng ngựa, buồng kín mít như buồng tằm, chẳng qua chỉ để cho chuột bọ rúc rích ra vào, gớm ghê bẩn thỉu như thế thì sao cho sạch sẽ được!
(1) tức cái trần nhà. Chữ trần đây vốn nghĩa là bụi, thừa trần là chịu bụi, ngăn bụi.
Ưa nịnh, chê bai, thiếu óc khoa học
Chỉ quen ưa nịnh (Trần Trọng Kim, Mấy lời bàn với Phan tiên sinh về Khổng giáo, năm 1930)
Người mình xưa nay vẫn chưa quen chịu người ta phê bình. Ai làm được quyển sách quyển vở nào, đem ra giới thiệu với công chúng thì chỉ muốn khen, chứ không muốn người ta chê, rồi hễ thấy người ta bẻ bắt điều gì là mích lòng và không hiểu rằng “người dạy ta mà phải là hầu ta, người trách ta mà phải là bạn ta". Bởi vậy người phê bình cũng không muốn phê bình, mà sự học cũng không tiến bộ được.
--------------------------------------------------------------------------------
Nhiều trò quảng cáo bỉ ổi (Hoa Bằng, Vài cái liệt điểm của một số nhà văn ta, Tri tân, năm 1942)
Người ta khoác bộ áo phê bình để thực hành cái dã tâm tâng bốc lẫn nhau, quảng cáo lẫn nhau. Anh Giáp viết đến mấy kỳ báo ca tụng "văn nghiệp"(!) của anh Ất(1) rồi anh Ất để hết lại, viết hàng mớ bài tán lương về văn tài về tác phẩm của anh Giáp. Nhưng bạn đọc, giá chịu khó tò mò đôi chút, sẽ biết rõ ngay hai anh ấy là bạn nối khố của nhau, lợi dụng tờ báo để công kênh nhau lên chín tầng mây biếc. Đáng tức cười hơn nữa, cùng trong một Tòa soạn, trong một đoàn văn, họ lại vẫn giở ngón quá chướng là phê bình tác phẩm của nhau vẫn một giọng khen ngợi hết lời, hoan hô nhiệt liệt.
(1) Cũng như ngày nay hay nói anh A anh B, anh X, anh Y --------------------------------------------------------------------------------
Kém óc khoa học (Phan Khôi, người Việt Nam và óc khoa học, Tao Đàn, năm 1939)
Trng đám trí thức chúng ta đã có nhiều kẻ tự nhận mà tuyên bố lên rằng người Việt Nam thiếu óc phê bình, không có óc khoa học. Rồi coi ai cũng im thin thít chịu cả, ai cũng làm thinh, không cãi lại. Phải, chịu chứ còn ai sao được! Các sách Nho ta thường học mở ra thấy đầy những chữ như là tam tài, tam quang, ngũ luân, ngũ hành(1)... còn bao nhiêu nữa không kể hết - mới nghe như là rành về óc phân loại lắm mà kỳ thực nào có phải. Những chữ số mục trên một danh từ ấy chẳng qua bởi người ta thấy cái gì lược đến đâu thì kể đến đó, chứ chẳng phải có chủ ý làm một sự phân tích cho hợp với lẽ đương nhiên.
Trong lúc nền học thuật nước ta bắt đầu độc lập, tôi thấy như ai nấy có huynh hướng về văn học hơn khoa học. Ấy là cái hiện tượng đáng cho chúng ta không lấy làm mãn ý. Có người đã ví văn học và khoa học như hai anh chim chích(2) một không bay nổi. Chuyện chuộng văn học thì lâu ngày nó sẽ thành ra vô thực dụng, cái gương Hán học hồi trước vẫn còn treo mãi cho chúng ta.
(1) Tam tài: Trời, Đất, Người. Tam quang: Mặt trời, Mặt trăng, Sao. Ngũ luân: năm mối quan hệ là Vua - Tôi, Cha - Con, Anh - Em, Vợ - Chồng, Bạn bè. Ngũ lành: Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ.
(2) Đại nam quốc âm tự vị của Huỳnh Tịnh Của giải thích "chích" cớ nghĩa là lệch nghiêng, chích cánh là gãy cánh, còn cô một cánh, cũng là lẻ đôi, chích bạn. | |
| | | Hoàng Hưng Người sáng lập
Tổng số bài gửi : 408 Join date : 27/04/2008 Age : 37
| Tiêu đề: Re: Người Việt xấu xí. Thu Sep 17, 2009 7:14 pm | |
| Không biết học hỏi, bỏ không biết cách, hiếu kỳ, tinh vặt
Sang đến xứ người cũng không biết học hỏi (Phan Chu Trinh, Đạo đức và luân lý Đông Tây, năm 1925)
Người nước ta thường tự xưng là đồng loại, đồng đạo, đồng văn(1) với Nhật Bản, thấy họ tiến thì nức nở khen, chứ không khi nào chịu xét vì sao họ được tiến tới như thế. Họ chỉ đóng tàu đúc súng mà được giàu mạnh hay họ còn trau dồi đạo đức sửa đổi luân lý mới được như ngày nay? Tôi rất lấy làm lạ cho những người đã qua Nhật không đem cái hay cái tốt về cho dân nhờ mà chỉ làm giàu thèm tính nô lệ! Hay là người mình như kẻ đã hư phổi rồi cho nên một nơi có thanh khí như nước Nhật mà cũng không thở nổi chăng?! Lấy lịch sử mà nói thì dân tộc Việt Nam không phải là không thông minh, thế thì vì lẽ nào ở dưới quyền bảo hộ hơn 60 năm nay(2) mà vẫn còn mê mê muội muội bịt mắt vít tai không chịu xem xét không chịu học hỏi lấy cái hay cái khéo của người.
(1) cùng theo đạo Khổng, cùng sử dụng chữ Hán. (2) tính tới thời điểm tác giả nói trong bài này nước Pháp mới đô hộ nước ta 60 năm.
--------------------------------------------------------------------------------
Học không biết cách mà bỏ cũng không biết cách (Trần Trọng Kim, Nho giáo, năm 1930)
Những người theo Nho học xưa nay thường hay trọng cái hình thức bề ngoài thái quá để đến nỗi tinh thần sai lầm đi rất nhiều. Người mình lại cứ quen một mặt thuận thụ(1) theo cái khuôn nhất định của tiền nhân để lại, việc phải trái hay dở thế nào cũng chỉ ở trong cái khuôn đó chứ không chệch ra ngoài được, sự phê bình phán đoán càng ngày càng hẹp lại, không biết còn có tư tưởng nào nữa.
Đến nay thời cục đã biến đổi, khoa cử bỏ đi rồi, sự học cũ không phải là cái cầu ở con đường sĩ hoạn nữa, thì Kinh Truyện xếp lại một chỗ mà đạo thánh hiền cũng chẳng ai nhắc đến.
Sự bỏ cũ theo mới của ta hiện thời bây giờ không phải là không cần cấp, nhưng vì ngỡ mình nông nổi không suy nghĩ cho chín chưa gì đã đem phá hoại đi, thành thử cái xấu cái dở của mình thì vị tất đã bỏ được, mà lại làm hỏng mất cái phần tinh túy đã giữ cho xã hội ta được bền vững mấy nghìn năm. Cái tình trạng nước ta hôm nay là thế, khác nào như chiếc thuyền đi ra biển, không biết phương hướng nào mà đi cho phải.
(1) xuất theo, tự nguyện chấp nhận.
--------------------------------------------------------------------------------
Nặng tính hiếu kỳ (Dương Quảng Hàn, Học sao cho phải đường, Hữu Thanh, năm 1921)
Cái tính hiếu kỳ là cái bệnh chung trong lối học của ta, xưa kia học chữ Tàu, đọc sách Tàu, lâu dần quá mê chuộng mà khinh rẻ những cái của mình. Cái gì của Tàu cũng cho là hơn mà chịu khó nghiên cứu, cái gì của mình cũng cho là dở là kém không thèm nhìn tới. Thành ra núi sông đình miếu nước Tàu thì biết mà núi sông đình miếu nước mình thời không hay, danh lam thắng tích bên Tàu thì rõ mà danh lam thắng tích nước mình thì không tường, lịch sử địa dư nước Tàu thì thiệp liệp(1), mà lịch sử địa dư nước mình thời mịt mù, phong tục nhân vật nước Tàu thời tường tất mà phong tục nhân vật nước mình thời tối tăm. Mà có phải mình thiếu gì cái đẹp cái hay, cái đáng ngắm...
(1) cũng có hiểu ít nhiều.
--------------------------------------------------------------------------------
Thông minh rút lại hóa ra tinh vặt (Lương Đức Thiệp, Việt Nam tiến hóa sử, năm 1944)
Về tính chất tinh thần thì người Việt Nam phần nhiều là thông minh, song những người có trí tuệ lỗi lạc thì xưa nay vẫn hiếm. Nhiều khi từ thông minh không có chỗ dùng thuận tiện thường lại biến ra não tinh vặt. Trí nhớ của người Việt Nam rất nẩy nở, đến não tường tượng thì hoàn toàn bị não thực tiễn làm tê liệt. Não thực tiễn này mở nguồn cho nhiều đức tính khác, cho nên người Việt Nam hiếu học không phải vì khát hiểu biết mà chỉ vì mong một địa vị ưu thắng trong xã hội: Học đối với người Việt.không phải để thỏa mãn một khát khao trí tuệ, mà chính là để làm kế mưu sinh.
Ích kỷ, khôn vặt, vụng nói chuyện, học để kiếm gạo, ... Ích kỷ và khôn vặt (Nguyễn Đỗ Mục, Đông dương tạp chí, 1914)
Cái tật ích kỷ vốn là một thứ hay lây: Trông thấy những vườn hoa cây cảnh ở sân nhà trường hay ở nơi đền chùa, hoặc cạnh đường đi lối lại, đã không biết giữ gìn để làm một cái cảnh vườn chung thì chớ, nhiều người lại còn đang tay bẻ tàn bẻ hại, để đem về nhà mà chơi thích chí lấy một mình. Cái chứng ích kỷ đã mọc ra, đến lúc lớn lên thành ra một người đi đến đâu phá hủy đến đấy. Cũng vì lẽ đó mà dân An Nam không mấy khi có được cảnh vui chung (1), ai có muốn chơi cảnh thì lại phải xây một vài cái bể cạn hay là bầy mươi lăm cái chậu con để làm một khu vui riêng mà không chung chạ với ai cả. Dần dần nảy ra một cái tư tưởng đáng cười, đáng khinh, đáng ghét, đáng sợ là hai chữ ích kỷ, mà một câu "ăn cỗ đi trước lội nước đi sau" đủ vẽ hết được ruột gan.
(1) tức là không có các loại công viên hoặc khu giải trí công cộng
--------------------------------------------------------------------------------
Vụng nói chuyện (Nguyễn Văn Vĩnh, Đông dương tạp chí, 1914)
Ai có ý đến những nơi họp tập, hoặc là chỗ chơi bời thì thực là buồn thay cho cái trí dục của những người đời nay. Ngoại giả chuyện cô đầu, chuyện cờ bạc, chuyện hát tuồng, chuyện chim chuột, chuyện quần áo còn thì không mấy khi được nghe những câu chuyện lý thú, làm tỏ được học vấn kẻ nói, lợi được trí khôn người nghe.
Mà xem như trong cách nói chuyện, thì thiếu niên (1) ta nghe lại có ý thích những câu chuyện tầm thường, nói chuyện để mà khoe cho người nọ người kia biết cát cách của ta chơi xa xỉ hoặc là kỳ khu... Ai ăn nói có tư tưởng cô tỏ học vắn thì thường người nghe thích nhưng ít cầu, vì câu chuyện cô nghĩa, làm cho phải nghĩ, phải đối đáp nhọc mệt... Người nói chuyện hay, cũng có kẻ phục là người có ích, nhưng trong cái phục có cái ghen cô cát ghét. Ghen là vì ở đâu đến cướp mất tai kẻ nghe, ghét là vì ở đâu đến làm tỏ cái nhàm của câu cười cợt tầm thường người ta đang thú.
(1) Hồi đầu thế kỷ XX, chữ thiếu niên không phải dùng để chỉ lớp thiếu nhi từ l0 đến 14 tuổi như bây giờ. Mà có nghĩa là người trẻ tuổi, tức lớp thanh niên 18 tuổi trở lên.
--------------------------------------------------------------------------------
Học để kiếm gạo (Phan Bội Châu, Lời hỏi các bạn thanh niên, 1928)
Đi học để kiểm gạo (1), tệ hại lớn lắm. Vì cốt kiểm gạo thời cái mục đích đã dở hoặc nhân vì mục đích đó mà sinh ra hay giả dối, hay tham lợi riêng, cốt được gạo thời thôi, đạo đức mà chi, hợp quần mà chi, ái quốc mà chi, trăm việc hỏng trớt.
(1) hiểu theo nghĩa rộng: chỉ cốt sinh lợi, có tiền. | |
| | | Hoàng Hưng Người sáng lập
Tổng số bài gửi : 408 Join date : 27/04/2008 Age : 37
| Tiêu đề: Re: Người Việt xấu xí. Thu Sep 17, 2009 7:17 pm | |
| Trọng mê tín- xem nhẹ trách nhiệm, ham hội hè, "thần mãn"
Trọng mê tín và xem nhẹ trách nhiệm với xã hội (Nguyễn Trường Tộ(*), Tám việc cần làm gấp 1867)
Trong dân gian, phần nhiều hễ có công sai đến thúc giục thuế khóa thì cả hương hào lý dịch cũng lánh mặt. Thế mà ngày cúng thần thì không thiếu mặt nào cả. Có những gia đình không được khá giả, qua một kỳ cúng thần mang nợ suốt đời. Có người còn phải bỏ xứ đi phiêu tán. Thế mà họ không hề oán trách chuyện thần thánh phiền phức, lại đi oán trách sưu cao thuế nặng.
(*) Nguyễn Trường Tộ thuộc thế kỷ XIX, nhưng về tư tưởng gần với các trí thức thế kỷ XX, nên xin phép được đưa vào đây.
--------------------------------------------------------------------------------
Khổ vì hội hè (Phan Kế Bính, Việt Nam phong tục, 1915)
Xét cái tục hội hè của ta, rước xách rất phiền phí, ăn uống rất lôi thôi, chơi bời rất chán chê, tiêu pha rất tốn kém, thực là hại của mà lại mua lấy cái khó nhọc vào mình. Đã đành mở hội trước là trọng việc sự thần(1), sau là cầu vui cho dân, nhưng trong mà rước xách tế bái lắm hóa ra khổ. Hội đến hàng tháng, chịu làm sao cho được?
Vả lại đã gọi là hội, trừ ra việc đóng góp, việc ăn mặc cũng đã tốn kém nhiều rồi, còn ngần nào chơi bời, ngần nào cờ bạc, con em bỏ công bỏ việc ở nhà để đi hội, chẳng những vô ích mà lại hại thêm cho làng nữa.
…Xưa nay chỉ mấy người hào trưởng(2) trong làng sính mớ hội vì họ có nhiều món lợi riêng, như mở tổ tôm điểm, bài phu điểm(3), hoặc gá bạc để lấy hồ(4)… Họ mượn tiếng sự thần, kỳ thực lá cầu tư lợi. Mà khốn nạn cho dân đàn em lại phần nhiều là ngu xuẩn, nói đến việc sự thần không ai dám gàn trở gì nữa, dẫu khổ cực thế nào cũng phải nhắm mắt chịu. Nếu ai gàn trở thì sợ thần quật chết tươi. Mà thần chẳng quật, bọn hào trưởng cũng quật, tội nghiệp!
(1) sự ở đây là thờ phụng.
(2) người có thế lực trong làng.
(3) những địa điểm ăn chơi, bài phu cũng là một loại bài lá như bài bất bài cào…
(4) tiền người đánh bạc nộp cho chủ sòng gọi là hồ.
----------------------------------------------------------------------------
Nạn “thần mãn” (Ngô Tất Tố, Phải hỏi ngôi đền ấy thờ ông thần nào đã - báo Thời vụ 1938)
An Nam vốn là một nước nhiều thần nhất thế giới. Cái vạ thần mãn(1) kéo dài mấy trăm mấy ngàn năm nay làm hại bao nhiêu trâu bò gà lợn... của chúng ta. Đành rằng cũng có nhiều ông thần có công với dân, đáng để cho dân kỷ niệm, song cũng vô số thần cực kỳ bẩn thỉu dơ dáy, thí dụ như ông thần Cường Bạo đại vương chẳng hạn, nếu còn sống chắc phải đầy đi Côn Lôn. Thế mà chúng ta cứ thờ bừa đi, lễ bừa đi, há chẳng oan cho cái đầu cái cổ.
(1) quá nhiều thần, thừa thần,cũng như nạn nhân mãn là quá nhiều người, thừa người.
Nông nổi, hời hợt, tín ngưỡng xen hoài nghi Nông nổi, hời hợt (Thạch Lam, Theo dòng, năm 1941)
Những phong trào ở nước ta, bất cứ phong trào gì, đều có một tính chung là nông nổi, hời hợt bề ngoài. Cái mà chúng ta thiếu nhất là sự sâu sắc. Bởi ta không chịu phân tích và suy xét kỹ nên bất cứ vấn đề gì chúng ta cũng không biết được rõ ràng và chu đáo, biết một cách thấu suốt.
Chúng ta có cái đời sống bên trong rất nghèo nàn và rất bạc nhược. Những tính tình phong phú, dồi dào hay mãnh liệt chúng ta ít có. Chẳng dám yêu cái gì tha thiết và cũng chẳng dám ghét cay đắng, lòng yêu ghét của chúng ta nhạt nhẽo lắm. Chúng ta đổi lòng tín ngưỡng sâu xa ra một tín ngưỡng thiển cận và nông nổi, giữ cái vươn cao về đạo giáo của tâm hồn xuống mực thước sự săn sóc nhỏ bé về ấm no.
--------------------------------------------------------------------------------
Đối với những tư tưởng lớn chỉ hiểu sơ sài (Nguyễn An Ninh, Lý tưởng của thanh niên An nam, năm 1924)
Thu nhặt tất cả những gì về văn chương nghệ thuật đã được làm ra trên đất nước ta, dễ thấy nguồn tài sản tổ tiên ta để lại là mỏng manh so với các dân tộc khác. Không thể từ cái di sản đó tiếp thêm sức mạnh trong cuộc chiến đấu giành một chỗ đứng trên thế giới.
Những tác phẩm đã đóng góp vào việc nâng cao trình độ học thức của người Trung Quốc thật là nhiều, nhưng với các nhà của ta, hình như các ông ấy chỉ biết mỗi một mình Khổng Tử.
Đạo Khổng dưới dạng một món hàng xuất khẩu mang sang nước An Nam đã gây tai hại: Các nhà Nho ta muốn Khổng hóa tất cả những gì nằm trong tầm mắt của họ, giải thích mọi thứ theo cách hiểu hẹp hòi của họ.
Hiểu biết của ta về các vấn đề Trung Hoa, về nền văn hóa Trung hoa còn rất xa yêu cầu hiểu biết thực sự (những người đã hiểu thấu đáo văn hóa Trung Hoa có đủ trình độ để tiếp thu mọi luồng tư tưởng của nhân loại). Cũng như, cho đến nay, chưa có một người Việt Nam nào tiếp thu đầy đủ ý nghĩa của văn hóa Pháp.
-------------------------------------------------------------------------------
Tín ngưỡng xen lẫn hoài nghi (Lương Đức Thiệp, Xã hội Việt Nam, năm 1944)
Tín ngưỡng của người Việt không có tính cách đơn thuần. Họ nhận thức rằng trong vũ trụ có những lực lượng có thể nguy hại tới họ, nên họ tìm cách ngăn ngừa. Không rõ các lực lượng âm thầm tác động ra sao nên họ tế lễ để cầu yên. Đối với họ, ông thánh nào cũng thiêng, ông thần nào cũng mạnh, Phật tổ Lão tổ đều là bậc thánh thần cả, bởi vậy họ phải kiêng sợ mà lễ bái để cầu lợi lộc. Thực ra, trong trí họ vẫn lởn vởn ít nhiều ngoài nghi. Đem chứng nghiệm với cuộc đời thực, họ thấy uy quyền của Thần Phật có mà cũng lại không. Thái độ lưng chừng và thiết thực làm họ dung hòa được các tôn giáo. Họ không có một tín ngưỡng vững chắc nào cả.
| |
| | | Hoàng Hưng Người sáng lập
Tổng số bài gửi : 408 Join date : 27/04/2008 Age : 37
| Tiêu đề: Re: Người Việt xấu xí. Thu Sep 17, 2009 7:21 pm | |
| Nhiều mâu thuẫn, phá hoại, thiếu khiêm nhường Những mâu thuẫn nội tại (Nguyễn Văn Huyên, Văn minh Việt Nam, năm 1944)
Nói chung người Việt có chất nghệ sĩ nhiều hơn chất khoa học. Nhạy cảm hơn là có lý tính. Yêu thích văn học và trang trí. Đa số chỉ mơ ước nghề làm quan là con đường đã vạch sẵn, không đòi hỏi nhiều cố gắng độc đáo, mà lại đem đến nhiều vinh hiển.
Chẳng có mặt nào của tính cách người Việt lại không có mặt bù lại và không gợi ra ngay tức khắc một bằng chứng ngược lại. Chúng ta đã nói vế tính biếng nhác và sự uể oải của người Việt, nhưng người ta chẳng thấy nơi nào trên thế giới một dân tộc cần cù như vậy, và những người lao động sẵn sàng làm những trong việc nặng nhọc trong khi chỉ nhận được số tiền công rẻ mạt đến như vậy.
Chúng ta cong đã nói về tính phóng túng bông lông và mơ mộng của người Việt. Thế mà chúng ta lại cũng dễ dàng khám phá ở người dân nơi đây một đầu óc thực tế lạ lùng, nó quyết định chiều hướng tâm hồn người nông dân và trở nên một vũ khí lợi hại trong tay những người thợ mỹ nghệ. Nếu tính hay thay đổi là đặc tính của người Việt thì ta cũng phải ngạc nhiên mà nhận xét rằng trong bọn họ có một số kẻ là những tay dai dẳng và bám riết người ta khi xin xỏ, là những kẻ sính kiện tụng không ai địch nổi, là những học sinh sinh viên quyết chí săn đuổi bằng được bằng cấp. --------------------------------------------------------------------------------
Phá hoại rồi bịa ra những thứ không đâu để thờ (Vũ Ngọc Phan, Chuyện Hà Nội, năm 1944)
Ký vãng là ký vãng. Ngậm ngùi hay nhớ tiếc cũng đều là vô ích, nhưng đọc lại lịch sử Việt Nam, người ta không khỏi lấy làm lạ về cái tài phá hoại của người Việt Nam ta, một dân tộc vốn có tính thích duy trì cả những cái không đáng coi là quốc hồn, quốc tuý. --------------------------------------------------------------------------------
Khiêm nhường giả, kiêu căng thật (Phan Khôi, Báo phổ thông, năm 1930)
Có sao nói vậy mới là ngay thật. Vẫn biết tự khiêm là một nết tốt, song làm người có sự tự tin thì mới ra người. Cái chỗ mình đã tự tin rồi mà nói ra không dám tỏ ý quả quyết, thì lại thành ra giả dụ, mất sự ngay thật đi.
(…) Người nước mình đã giả dối có tiếng, mà trong đám học thức, cũng lại giả dối quá người thường. Thật bụng thì kiêu căng tự phụ, coi người ta nửa con mắt, mà nói làm ra bộ khiêm nhường, theo lời tục nói, ở nhà như con tép. Cái sự tự khiêm giả dối ấy mỗi ngày một thêm lêm, làm cho sự tự tin mất đi, dần dần chẳng có ai dám chịu trách nhiệm trung việc gì hết, mà ai ai cũng thành ra hiền nhân quân tử hết, vì chỗ tự khiêm đó. Đó là cái bệnh di truyền mà Tống nho đã để lại.
Nguồn: Thể thao & Văn hóa
Được sửa bởi Cát Bụi ngày Thu Sep 17, 2009 7:36 pm; sửa lần 2. | |
| | | Hoàng Hưng Người sáng lập
Tổng số bài gửi : 408 Join date : 27/04/2008 Age : 37
| Tiêu đề: Re: Người Việt xấu xí. Thu Sep 17, 2009 7:24 pm | |
| Thiếu tận tâm, tôn trọng, chờ may rủi
Vốn mỏng lại thiếu tận tâm (Lương Dũ Thúc, Nông cổ mín đàm, năm 1901)
Hễ mỗi khi người khách(1) ở nội xứ mình mà họ lập điều chi, thứ nhất là xài tiền nhiều, thứ hai là kiệt lực tận tâm. Xem ra thì nước mình không sức mà làm đặng, dầu có sức về việc tiền bạc(2) thì thiếu tay làm, bởi vậy làm không đặng. Sao mà người ta làm điều chi đặng hết, còn người mình mỗi điều nào đều là khó hết? Ví như hiểu là tại mình không tận tâm, tránh khó mà tìm dễ, thì xin một điều hãy trách và hờn lấy mình, sao mà đãi đọa(3) lắm vậy?
(1) chỉ các Hoa kiều.
(2) có đủ vốn.
(3) biếng nhác.
--------------------------------------------------------------------------------
Không biết tôn trọng cả lợi ích công cộng lẫn lợi ích cá nhân (Quốc dân độc bản, tài liệu của Đông kinh nghĩa thục, năm 1907)
Sản nghiệp tài vật chung gọi là lợi ích công cộng. Có những kẻ chiếm đường quan, phá hoại cầu cống, phá trường học, công sở, đồ đạc trong thư viện, đèn điện trên hè phố, bẻ hoa ở công viên và vi phạm quy ước chung. Nơi du hí hội trường nhà hát họ cũng tranh giành nhau làm ồn ào náo động. Phàm những kẻ mưu tiện lợi cho mình mà bất tiện cho số đồng đều không thể tha thứ được.
Những người tìm ra được một phương pháp làm ăn truyền lại được một kỹ thuật khéo léo cũng phải lao tâm khổ tứ. Nếu không có pháp luật bảo vệ quyền lợi khác biệt ấy, những người có tài sẽ sinh ra chán nản lười biếng và sẽ chẳng có sáng tạo mới nữa. ở các nước, những sáng chế mới mẫu mã kiểu dạng mà sắc nhãn hiệu hàng hóa đều đăng ký ở các cơ quan hữu trách cho chuyên dùng. Người nước ta giỏi việc giả mạo, in ấn mô phỗng, luật pháp trong nước không định, các quan địa phương cũng cho là không cấp thiết, như thế mà mong xã hội tiến bộ được chăng?
--------------------------------------------------------------------------------
Trông đợi quá nhiều ở sự may rủi (Đặng Vũ Kính, Đông dương Tạp chí, năm 1916)
Phương ngôn có câu rằng "may hơn khôn", chẳng qua là nhân một việc gặp may thì hơn thật, có phải là sự gì cũng kiêu hãnh được đâu. Dân nước ta nhân truyền tập(1) câu ấy làm đầu lưỡi, mà không biết lẽ phải trái ra thế nào. Học tài thi phận, người học trò đỗ tại duyên trời, trông quả trồng cây, người làm ruộng chỉ nhờ hòn đất, người đi buôn gặp phiên chợ đắt thì may rằng ra ngõ gặp trai, người làm thợ gặp buổi công cao thì may rằng áo vá gặp hội. Cho đến làm việc gì tiện lợi thì mừng rằng buồn ngủ gặp chiếu manh, làm việc gì gian truân thì than rằng chết đuối vớ phải cọc. Ai cũng lấy sự may làm chắc mà không biết rộng trí khôn ra, một câu nói làm lầm cho người ta làm.
(1) trao lại cho nhau, tiếp nối đời này sang đời khác.
Tầm nhìn hạn hẹp, cam chịu, lẫn lộn, kìm hãm nhau
Tầm nhìn tầm nghĩ chật hẹp (Quốc dân độc bản, Tài liệu do Đông Kinh Nghĩa Thục soạn, năm 1907)
Ái quân(1) bắt đầu tất phải yêu gia đình làng xóm trước. Nhưng ở đời những người lưu luyến gia đình làng xóm, bụng họ không nghĩ gì ngoài bát gạo hạt muối, chân không hề bước đi đâu một bước. Xa gia đình làng xóm trăm dặm là nước mắt đã ướt áo, ra khỏi ngõ mười ngày là sốt ruột muốn về. Chí thú(2) của họ tất nhiên thấp hèn, kiến văn(3) của họ tất nhiên thô lậu, xã hội trông mong gì ở họ được nữa.
… Khi châu Mỹ chưa ai biết, người Châu Âu cứ sang khai phá, xây nhà dựng cửa cho con cháu. Còn dân ta thì cho rằng "xảy nhà ra thất nghiệp” nên không có chí viễn du. Không lấy làm lạ tri thức không mở mang, đời sống không đầy đủ, Tổ quốc - lâm vào cảnh nguy vong mà không hay biết.
(1) yêu đồng bào đồng loại. (2) ý chí và lạc thú (niềm vui)... (3) kinh nghiệm và học thức.
-------------------------------------------------------------------------------- Thói quen cam chịu (Nguyễn Trọng Thuật, Hương chính tình nghĩa, Nam Phong, năm 1927)
Ở nhà quê, dù khốn khó đến đâu, nhiều người cũng chỉ rên rỉ trong mồm chứ không gầm gào ra ngoài miệng, đôi khi nằm bẹp chứ không chạy kêu như dãn thất nghiệp bên Tây, nên không mấy người biết tới. Đó cũng là nhờ được có cái tính di truyền lành hiền và ăn hèn ở khó đã quen:
-------------------------------------------------------------------------------- Vàng thau lẫn lộn, nhầm của người với của mình (Phan Chu Trinh, nước Việt Nam mới sau khi Pháp Việt liên hiệp, năm 1912)
Dân Nam, trên lịch sử, có hai đặc tính cực đoan phản đối(1) nhau: một là bài ngoại và ỷ ngoại, hai là tự tôn và tự ti. Hai đặc tính đó có sẵn trong não mọi người. Mỗi cái, nhân thời thế mà phát hiện, lại đều đi tới cực đoan. Lại khi đã tới cực đoan, mỗi cái đều giữ lý do, chuyên cậy vào tập quán, lợi hại đểu bị che lấp không thấy.
Xét nước ta học văn học của Trung Quốc bắt chước quá sâu, có khi mất cả chân tướng của mình. Từ khi hấp thụ văn minh Trung Quốc, không phân biệt tốt xấu cái gì cũng thâu vào, lựa chọn không tinh, được không bù mất. Có khi tự coi là người Trung Quốc, tự coi là người văn minh, lừa đội lốt hổ, hiêu hiêu(2) tự cho là lớn, vàng thau lẫn lộn, bơ vơ không chỗ mà nương.
(1) nói như ngày nay: đối nghịch nhau. (2) chúng tôi chưa thật rõ, chỉ thấy trong Hán Việt từ điển của Thiều Chửu ghi “hiêu hiêu” có một nghĩa là “kêu lải nhải”, một nghĩa khác là "ra dáng ung dung tự đắc" .
--------------------------------------------------------------------------------
Xóm làng níu kéo kìm hãm nhau (Nguyễn Văn Vĩnh, Chỉnh đốn lại cách cai trị dân xã, Đông Dương Tạp chí, năm 1914)
Dân trí hẹp hòi, ở ta nhiều người học hành chẳng qua mong lấy thi đỗ làm quan cho làng cho họ được nhờ. Công nghệ buôn bán thường đợi khách đến tận làng mà mua những đồ chế hóa(1). Người bất đắc dĩ phải đi xa cầu thực(2), hồ(3) kiếm được đồng tiền dư, trước hết phải lo nghĩ tới việc dựng cái nhà thờ, tậu vài ba mẫu ruộng ở quê quán mình. Nói việc nhỏ nhặt như người đi làm công làm việc, nhiều kẻ vì nghĩa làng nước mà quên đến cả nghĩa doanh sinh(4), chỗ cao lương bổng, không cầu, mà cầu lấy nơi ít tiền nhưng được tư án quán, tức có tên về làng về nước, kẻ bán buôn nơi thành thị hoặc kẻ có tài chế hóa ra được thứ hàng gì khéo, vị yêu nghệ(5) mà chuyên nghệ thì ít, song vị muốn tăng công để lấy chút danh mệnh để đem mặt về ngẩng nơi đình đám thì nhiều, cho nên lòng ao ước nhỏ nhen được thỏa là không lo gì đến nghệ nữa:
(1) làm ra. (2) kiếm ăn. (3) những mong, may ra. (4) tìm cách sinh nhai. (5) ngày nay nói nghề. | |
| | | Hoàng Hưng Người sáng lập
Tổng số bài gửi : 408 Join date : 27/04/2008 Age : 37
| Tiêu đề: Re: Người Việt xấu xí. Thu Sep 17, 2009 7:27 pm | |
|
Một quan niệm đơn sơ về thế giới Sự đơn điệu nghèo nàn là cảm giác chính còn lại trong Nhất Linh sau khi dự Hội chợ Hàng Việt Nam năm 1934 mở ở Nhà Đấu xảo Hà Nội.
Trong bài tường thuật trên Phong Hóa số ra ngày 30/11/1934, người đứng đầu văn đoàn Tự Lực viết: "Mấy gian hàng Hải Dương, Nam Định vẫn như mọi năm không có gì tiến bộ.Thăm gian hàng Trung Kỳ, người ta cảm thấy như sống lùi lại mười năm trước bởi chỉ có ít đồ gỗ nét chạm non nớt. Đồ đồng của ta có lẽ nghìn vạn năm nữa không thay đổi. Từ cái thau cái mâm cho đến cái đỉnh thứ nào cũng nguyên như cũ , hình như đổi mới nó đi là một cái tội vậy. Đồ sứ Bát Tràng men trông cũng khéo, chỉ tiếc rằng kiểu không đẹp, phần nhiều là bắt chước Tàu”.
Những nhận xét này có thể áp dụng cho toàn bộ thế giới đồ vật mà người Việt sáng tạo ra để phục vụ đời sống của chính mình. Một đôi dép để đi ở Bắc bộ, nó chỉ là một chiếc mo cau hoặc miếng da, có thắt một nút trồi lên vừa để xỏ một ngón chân. Trong khi người dân nông thôn xưa chỉ đi chân đất thì một đôi dép như thể còn là xa xỉ, và chỉ những dịp hội hè người ta mới dám sử dụng. Một cái điều ư? Chỉ là mấy tờ giấy phết vội trên mấy nan tre. Một cây sáo ư, chỉ là một ống tre có khoét mấy lỗ sơ sài. Nếu chúng ta biết rằng trên thế giới này, không chỉ Trung Quốc, Nhật Bản mả cả các nước phương Tây những cái điều bộ sáo có cấu tạo phức tạp tinh vi như thế nào thì người ta phải tự trách rằng sao dân mình dễ bằng lòng với những gì làm ra, tức dễ dừng lại trên đường sáng tạo đến thế.
Thời nay, khi làm hàng xuất khẩu, người mua các nước cũng thường chê hàng Việt mẫu mã đơn giản, có học lỏm được cái gì của người khác thì cũng chỉ loay hoay ở vài cái lặt vặt mà không biết khai thác hết những khả năng đa dạng có thể có.
Chẳng những chúng ta rất ít phát minh mà nhìn vào cái đã phát minh ra, thấy không vượt khỏi tình trạng bột phát ban đầu. Các ý tưởng không được hoàn thiện và đẩy tới cùng. Nguyễn Văn Vĩnh sớm nói thẳng là trước khi học của nước ngoài, những cái nhà của chúng ta quá trống trải và chẳng có gì mà bày, ghế giường bàn tủ dáng dấp nặng nề, nếu cố trau chuốt thì lại phô ra một mỹ cảm cầu kỳ vụn vặt.
Ở đồng bằng Bắc Bộ, ngoài nghề trồng lúa nước, gần như không có nghề làm vườn. Các giống vật nuôi trong nhà không đặc biệt, như con chó Việt, đặc tính chính của nó là sự tầm thường. Không có con đường làng nào là thẳng, con đường nào cũng cong queo vẹo vọ.
Tự bằng lòng về cuộc sống tự nhiên của mình ở các làng quê, người Việt gần như từ bỏ khả năng tổ chức lại cuộc sống một cách có suy nghĩ ở các đô thị. Cho đến cả trong cách tổ chức xã hội, trí tường tượng nghèo nàn cũng níu kéo chúng ta lại.
Thần thánh trong các truyện thần thoại cổ tích của ta quá gần người và cũng nghèo như người, cả về vật chất lẫn tinh thần.
Còn những ước mơ của chúng ta thì sao? Ngày xưa, bao chàng trai bỏ làng ra đi chống ngoại xâm, rút cuộc "súng gươm vứt bỏ lại hiền như xưa", mơ ước lớn nhất là quay về làng tiếp tục đi cày và cưới được cô thôn nữ.
Còn hôm nay, có một câu chuyện dân gian đang được lưu truyền rộng rãi. Một thanh niên Nhật hỏi người Việt cùng tuổi với mình là mơ ước gì thì được trả lời là mơ ước có cái Honda để đi, nhà có cái tủ lạnh Hitachi, cái máy giặt Sanyo để dùng. Nói chung là ao ước dân Nhật xài đồ gì thì mình có đồ đó để xài.
Còn người thanh niên Nhật khi được hỏi lại chỉ nói gọn một câu là ước sao giỏi giang hiểu biết để thực hiện được tất cả những ước mơ của các bạn Việt cùng tuổi.
Câu thơ của Chế Lan Viên Lũ chúng ta ngủ trong giường chiếu hẹp - Giấc mơ con đẻ nát cuộc đời con không chỉ đúng với con người thời tiền chiến mà đúng với người Việt gần như suốt thời quá khứ, không chỉ con người bình dân mà cả những tầng lớp tinh hoa.
Học bề ngoài, khách sáo
Chỉ biết học cái bề ngoài (Phạm Quỳnh, giải nghĩa đồng hóa, Nam Phong, năm 1931)
Người mình vốn có cái thiên tính dễ đồng hóa, nghĩa là có tư cách(1), dễ am hiểu dễ thu nạp lấy những gì khác lạ với mình, dễ đem những điếu hay điều dở của người ngoài mà hóa làm của mình, nhưng cái tài đồng hóa đó thường thường chứa cái khóe tinh(2), biết xem xét và bắt chước của người, phảng phất ở bề ngoài, chứ không thấu triệt được đến chỗ căn để(3), chỗ tinh túy. Tỷ như thợ An Nam thì phỏng chép tài lắm, những hình dáng kỳ đến đâu, những kiểu cách lạ đến đâu, họ bắt chước cũng được như hệt cả. Cái cách đồng hóa dễ dàng thô thiển đó thiết tưởng không phải là cái tính tốt.
Như học trò ta học rất mau, nhớ cũng rất mau, nhưng chưa chắc đã hiểu được thấu, đã hóa được hẳn những cái người ta dạy mình và chưa chắc cái học tiếp thu được dễ dàng như vậy nó đã làm cho óc được khôn ra, người được chín ra chút nào.
(1) nghĩa cũ: trình độ khả năng. (2) mánh khóe ranh ma. (3) gốc rễ.
--------------------------------------------------------------------------------
Giam mình trong vòng khách sáo (Hoài Thanh, Thành thực và tự do trong văn chương, Tao Đàn, năm 1939)
Văn chương ta buồn tẻ nghèo nàn, các nhà văn ta ít thấy khác nhau, chỉ vì họ tự dối mình, vì họ không đủ cái thành thực để phô diễn tâm linh của mình, vì họ tự giam mình trong vòng khách sáo.
Khách sáo chính là cái vỏ mà đoàn thể phủ trên mình, trên linh hồn cá nhân. Về hình thức, khách sáo là những quần áo mũ giày theo thời thượng. Về tinh thần, khách sáo là những tình ý thông thường hay nói theo lối người Tây, những tình những ý vẫn chạy rông ngoài đường phố.
-----------------------------------------------------------------------------
Biếng nhác trong giáo dục gia đình (Phái Phỉ, Một nền giáo dục Việt Nam mới, năm 1941)
Những bậc cha mẹ ở nước mình đẻ con thì muốn cho nhiều mà dạy con thì thật cẩu thả và biếng nhác. Những ông bố hoặc là nhà kinh doanh, hoặc là người tòng sự các sở công sở tư, suốt ngày suốt tháng đầu tắt mặt tối về sự mưu sinh, có lúc nào rảnh rang thì dành cho các cuộc tiêu khiển như bài bạc hát xướng mà các ông cho là mình có quyền được hưởng sau khi làm việc. Đại để thì đẻ con ra, nuôi chúng như vỗ lợn rồi xin cho chúng một chỗ ngồi trên ghế nhà trường, là tưởng đã làm xong cái trách nhiệm của người cha rồi vậy. Đến những bà vợ... thỉnh thoảng các bà rờ đến con thì: liệu hồn những vú già vú em! Con các bà không hề bị trừng phạt mà chính đầy tớ các bà lại là cái bia chịu đạn.
Trong nhiều gia đình, sự thân mật quá độ và lầm lạc đã hầu thành hỗn xược. Trước mặt cha mẹ, con cái nói năng chẳng dè dặt chút nào. Chúng nói với cha me như với bạn. | |
| | | KhachQuaDuong New member
Tổng số bài gửi : 8 Join date : 13/12/2009
| Tiêu đề: Re: Người Việt xấu xí. Sun Dec 13, 2009 12:57 pm | |
| Tiếc thay không hiểu tại sao bạn Admin Cát Bụi lại trích dẫn một bài của blog.NgocHieu.com vào đây. Bài này có đôi chút ý tưởng hay, nhưng vô cùng quá khích, lẫn chút tự cao, tự đại, và khoe khoang. Từng lời lẽ trong bài viết nêu lên cái cá tánh rất "người Việt xấu xí" của chính tác giả (NgocHieu.com). Chẳng hạn như tác giả đề cập đến cái chuyện không cho xe lách vào với những lời rất tự cao và ngông cuồng. Đã có bao nhiêu tai nạn xảy ra trên những đường phố Việt Nam chỉ vì một người muốn lách xe vào, và một người nhất định không cho lách vào? Và có bao nhiêu người Việt Nam, bao nhiêu những học sinh đã chết trên quốc lộ 1 chỉ vì những tài xế quá khich tương tự? Không những thế, tác giả còn khẳng định là sẵn sàng vượt xe tới chấp nhận tai nạn để rồi gọi công an lại xử lý.
Một bài viết quá khích như vậy không xứng đáng là một "văn học" để đưa vào một trang văn học.
Xin cũng nói thêm rằng, cái tựa đề cũng không "sáng tạo", mà lại bắt chước một tác giả người Trung Hoa trong cuốn "The Ugly Chinese" (Người Trung Hoa Xấu Xí) | |
| | | Hoàng Hưng Người sáng lập
Tổng số bài gửi : 408 Join date : 27/04/2008 Age : 37
| Tiêu đề: Re: Người Việt xấu xí. Sun Dec 13, 2009 4:27 pm | |
| Rất cảm ơn bạn đã gửi phản hồi cho chúng tôi. Phần lớn trong bài viết này tôi lấy nguồn của tác giả Vương Trí Nhàn, nhưng vì tên bài viết của tác giải quá dài nên tôi tuyển tập lại và lấy tên là người Việt xấu xí. Lấy tên như vậy không phải là bắt chước mà là tôi muốn gửi một thông điệp rằng : chúng ta hoàn toàn có thể sánh ngang với Trung Quốc trong mọi lĩnh vực. Việc dẫn bài từ blog NgocHieu.com là một sự khẳng định rằng : trong mỗi chúng ta, ai cũng tồn tại những mặt xấu xí. Mong rằng tất cả các bạn sẽ hiểu được những nội dung mà chúng tôi muốn truyền tải. Trân trọng cảm ơn.
Được sửa bởi Cát Bụi ngày Thu May 27, 2010 1:01 pm; sửa lần 1. | |
| | | Tiều Phu Người sáng lập
Tổng số bài gửi : 261 Join date : 26/04/2008 Age : 35 Đến từ : Diễn đàn Việt Nam học
| Tiêu đề: Re: Người Việt xấu xí. Sun Dec 13, 2009 4:38 pm | |
| Tôi đồng ý với anh Cát Bụi. Chúng ta không phải chán đời mà chán cái thối nát của xã hội. Cũng không có gì là quá khích nếu chúng ta nhận ra cái xấu của chúng ta và xung quanh chúng ta. Nếu chúng ta sợ quá khích mà không nói ra những cái mình nhìn thấy, tôi e rằng xã hội sẽ không tiến xa được. | |
| | | Sponsored content
| Tiêu đề: Re: Người Việt xấu xí. | |
| |
| | | | Người Việt xấu xí. | |
|
Trang 1 trong tổng số 1 trang | |
| Permissions in this forum: | Bạn không có quyền trả lời bài viết
| |
| |
| |