TIẾNG NÓI CỦA NGÀNH VIỆT NAM HỌC
Chào mừng bạn đến với diễn đàn Việt Nam học. Diễn đàn là nơi gặp gỡ của những tri thức về khoa học Việt Nam học và các lĩnh vực liên quan. Để sử dụng được hết tài nguyên của diễn đàn, vui lòng Đăng ký nếu bạn chưa có tài khoản trong diễn đàn hoặc Đăng nhập nếu bạn đã đăng ký tài khoản. Chúc quý vị và các bạn có những giờ phút hữu ích cùng diễn đàn.
TIẾNG NÓI CỦA NGÀNH VIỆT NAM HỌC
Chào mừng bạn đến với diễn đàn Việt Nam học. Diễn đàn là nơi gặp gỡ của những tri thức về khoa học Việt Nam học và các lĩnh vực liên quan. Để sử dụng được hết tài nguyên của diễn đàn, vui lòng Đăng ký nếu bạn chưa có tài khoản trong diễn đàn hoặc Đăng nhập nếu bạn đã đăng ký tài khoản. Chúc quý vị và các bạn có những giờ phút hữu ích cùng diễn đàn.
TIẾNG NÓI CỦA NGÀNH VIỆT NAM HỌC
Bạn có muốn phản ứng với tin nhắn này? Vui lòng đăng ký diễn đàn trong một vài cú nhấp chuột hoặc đăng nhập để tiếp tục.

TIẾNG NÓI CỦA NGÀNH VIỆT NAM HỌC

HTTP://VIETNAMHOC.THE-TALK.NET/
 
Trang ChínhTrang Chính  ViệtNamhọcViệtNamhọc  Latest imagesLatest images  Tìm kiếmTìm kiếm  Đăng kýĐăng ký  Đăng Nhập  

 

 CHIẾU DỜI ĐÔ –QUYẾT SÁCH VƯỢT NGÀN NĂM

Go down 
2 posters
Tác giảThông điệp
Trai Làng Việt Nam
Member 5
Member 5
Trai Làng Việt Nam


Tổng số bài gửi : 93
Join date : 16/08/2011
Age : 33
Đến từ : Trai Làng Việt Nam

CHIẾU DỜI ĐÔ –QUYẾT SÁCH VƯỢT NGÀN NĂM Empty
Bài gửiTiêu đề: CHIẾU DỜI ĐÔ –QUYẾT SÁCH VƯỢT NGÀN NĂM   CHIẾU DỜI ĐÔ –QUYẾT SÁCH VƯỢT NGÀN NĂM EmptyWed Aug 24, 2011 5:28 pm

Một ông vua hay người đứng đầu đất nước có tầm nhìn xa, trông rộng là phúc lớn cho dân tộc. Lý Công Uẩn là một ông vua như vậy. Lý Công Uẩn, người khai sáng vương triều Lý (1010-1225), khai sinh Thủ đô Thăng Long – Hà Nội, sinh ra và được nuôi dưỡng, giáo dục nơi cửa chùa. Năm 1009, Lê Ngọa Triều ( Lê Long Đĩnh ) của nhà Tiền Lê mất, Lý Công Uẩn được giới tăng sĩ và quần thần mà chủ yếu là sư Vạn Hạnh và Đào Cam Mộc ( một vị tướng người Thanh Hoá) .tôn lên làm vua một cách êm thấm và kịp thời, lấy niên hiệu là Thuận Thiên (nghĩa là “theo ý trời”), miếu hiệu là Lý Thái Tổ. Lập tức, chưa đầy một năm sau- 1010 , ông đã ban Thiên Ðô Chiếu ( chiếu dời đô) dời Kinh đô từ Hoa Lư ( Ninh Bình) ra Đại La, đổi tên thành Thăng Long. Đó là quyết định có ý nghĩa lịch sử trọng đại nhất của Lý Công Uẩn thể hiện một trí tuệ việt trác, thiên tài, một tầm nhìn xa vượt ngàn năm, một tấm lòng lo toan cho con cháu nước Việt muôn đời . Thời đại chúng ta cũng có những quyết định sát nhập, đổi tên tỉnh này nọ, nhưng chỉ hơn thập niên thôi tất cả lại trở về như cũ bởi tầm nhìn hạn hẹp. Ôi, một quyết sách của một vị Hoàng Đế mà hơn 10 thế kỷ vẫn còn sức trường tồn hẳn là quyết sách của trời vậy!“Chiếu dời đô” của Lý Công Uẩn , là chiếu lệnh, một lời hịch , tự tay vua viết , ban ra để nói rõ cho quần thần, trăm họ biết về một về một quyết sách lớn của triều đình là dời đô, và kêu gọi sự đồng lòng. Đây là một văn kiện mang ý nghĩa vô cùng to lớn, là tác phẩm bất hủ về nhiều mặt: văn chương, lịch sử , chính trị, địa lý , triết học…
Về văn chương : Chiếu dời đô là áng văn lớn , giàu hình tượng , có trí tưởng tượng phong phú và có tính dự báo rất xa: “Huống chi thành Đại La … ở khu vực giữa trời đất, có được thế đất rồng cuốn, hổ ngồi; chính vị đông, tây, nam, bắc; tiện nghi phía trước là sông, phía sau là núi. Khu vực ấy rộng rãi, bằng phẳng; đất ở đấy cao ráo, sáng sủa, dân cư không bị ngập chìm tối tăm khổ sở, muôn vật thịnh vượng, tốt tươi…( CDĐ) . Không có trí tưởng tượng phong phú làm sao có được hình tượng giữa trời đất…rồng cuốn, hổ ngồi” ? Còn tính dự báo thì hẳn ai đọc Chiếu dời đô cũng biết, cho đến bây giờ Thủ Đô của nước Việt thế kỷ XXI vẫn là Thăng Long ngàn năm trước của Lý Công Uẩn. Theo nhà nghiên cứu Tạ Ngọc Liễn, cụ Bùi Huy Bích (1744-1818) đã chọn Chiếu dời đô vào công trình Hoàng Việt văn tuyển, là tuyển văn thơ cổ của nước ta “chứng tỏ cụ là nhà làm văn tuyển có con mắt rất tinh tường”. Nhà văn Gia Dũng, khi biên soạn tập tuyển thơ Ngàn năm thương nhớ ( tuyển thơ Thăng Long- Hà Nội 1010 – 2010 ) rất công phu, dày hơn 2000 trang đã xếp Chiếu dời đô là bài thơ đầu tiên của tuyển . Trong Lời nói đầu, Gia Dũng viết :” Chiếu dời đô là bài thơ đầu tiên của tổ tiên ta viết về Thăng Long- Hà Nội, và đến muôn sau, mãi mãi Chiếu dời đô vẫn là bài thơ đẹp nhất, hay nhất, trữ tình nhất về Thăng Long- Hà Nội “. Tại sao các học giả lại gọi Chiếu dời đô là một áng thơ ? Vì đó là bài thơ văn xuôi truyền được sự được sự xúc động của Lý Công Uẩn tới người đọc ngàn năm sau về một hình tượng thơ lớn là Thăng Long “ rồng cuốn, hổ ngồi” rất ám ảnh. Chính từ hình tượng thơ trong Chiếu dời đô đó mà Lý Công Uẩn đã đổi tên thành Đại La thành Thăng Long chăng ? Nhìn thấy Đại La là đất Thượng đô của Thượng đô muôn đời cũng là một hình tượng thơ lớn, tỏ rõ cái chí vì nước vì dân của Lý Công Uẩn.
Về mặt triết lý, Lý Công Uẩn dựa vào để lý giải việc đời đô là “Chỉ vì muốn đóng đô ở nơi trung tâm, mưu toan nghiệp lớn, tính kế muôn đời cho con cháu; trên vâng mệnh trời, dưới theo ý dân, nếu thấy thuận tiện thì thay đổi ” ( CDĐ). Mệnh trời là cái tất yếu , không thể cưỡng lại, đó cũng có thể là “sao chiếu mạng” trong lý số học, mà có thời người ta cho là mê tín dị đoan. Còn ý của dân – đó là chỗ dựa bền vững nhất của mọi triều đại .Cái gì dân không theo thì đừng làm. Nâng thuyền cũng là dân. Lật thuyền cũng là dân ( Nguyễn Trãi) . Cho nên kết thúc bài “hịch” ( tức kêu gọi) , Lý Công Uẩn viết rất “do dân, vì dân ”, muốn mọi người cùng chung sức làm việc lớn:” Trẫm muốn nhân địa lợi ấy để định đô ở đó, các khanh nghĩ thế nào?”.
Về mặt địa lý, Lý Công Uẩn chắc chắn là người rất giỏi xem long mạch đất. Một năm trước lúc lên làm vua ông là quan nhà Tiền Lê, chức Tả thân vệ Điện tiền Chỉ huy sứ. Lúc đó ông đã ấp ủ, nung nấu chuyện dời đô ra thành Đại La rồi. Nên mới lên làm vua là ông ban Chiếu dời đô ngay. Những năm làm quan dưới triều nhà Đinh và Tiền Lê đóng đô ở Hoa Lư ông đã thấy được đóng đô Hoa Lư chỉ với mục đích phòng thủ , cố thủ , thiển cận, tạo cho vua quan thói quan ăn chơi hưởng lạc, không có tương lai cho vương triều và thần dân trăm họ. Hoa Lư là vùng đất chật hẹp và bị núi bao bọc, ra vào chỉ có một đường độc đạo. Thế thủ thì tốt thật, song không có lợi cho việc xây dựng và phát triển vương triều cũng như đất nước lâu dài. Thực tế Hoa Lư là mạch đất không phải đất “đế đô” nên hai triều Đinh và Tiền Lê luôn trong nội bộ bất ổn , vương triều tồn tại không được bao lâu ( Triều Đinh hai đời vua , tồn tại 13 năm (968-980), triều Tiền Lê ba đời vua , tồn tại 29 năm (981-1009) ). Theo Nguyễn Tài Thư, ở Hoa Lư, “cảnh vua – tôi, cha – con, anh – em dòng họ thống trị luôn nghi kỵ nhau, ám hại nhau liên tục xảy ra. Đinh Liễn giết em là Hạng Lang lúc Đinh Tiên Hoàng còn sống, rồi Đỗ Thích là bề tôi trong cung giết cả Đinh Tiên Hoàng và Đinh Liễn; Lê Đại Hành (Lê Hoàn) vừa mất thì ba con của ông đánh nhau, tranh nhau ngai vàng, rồi Lê Long Đĩnh giết em là Lê Long Việt mới làm vua được ba ngày để tự mình lên ngôi, rồi ăn chới trác tác để lại tiếng xấu trong lịch sử là vua Lê Ngoạ Triều… Cảnh tượng đó khiến người nào làm vua cũng đều có tâm trạng hoang mang, phải đối phó.” Từ bài học đau xót đó, khi lên ngôi, Lý Công Uẩn cho rằng hai triều Đinh , Lê là “quên mệnh trời”, “ cứ ở mãi trong ấp nhỏ của mình” ( ” Thế mà hai nhà Đinh, Lê mới vì riêng mình, quên mệnh trời, , cứ yên ở mãi ấp nhỏ của mình nơi ấy, để đến nỗi đời chẳng được dài, vận số ngắn ngủi, trăm họ hao tổn, muôn vật không thích hợp, Trẫm rất thương xót, không thể không di dời khỏi nơi đó – CDĐ.) . Nhất định trước khi lên ngôi vua, Lý Công Uẩn với sự giúp đỡ của sư Vạn Hạnh , sư anh Lý Khánh Vân và tướng Đào Cam Mộc ( người Thanh Hoá ) đã đi thị sát Đại La nhiều lần, đã phát hiện ra mạch đất Đại La là huyệt đất “đế vương” muôn đời “.Ngắm xem khắp nước Việt, thấy đây là vùng đất có phong cảnh tốt đẹp nhất, thực là nơi trọng yếu cho bốn phương hội tụ; là đất Thượng đô của Thượng đô muôn đời.” ( CDĐ), nên ông quyết tâm dời đô ra đó. Và quyết định đó là chính xác tuyệt đối.
Về chính trị và kinh tế, Sauk hi dời đô, triều Lý phát triển rất hưng thịnh . Chiếu dời đô là một bản văn 217 chữ Hán ( dịch ra Quốc ngữ chưa đầy 300 chữ) mà nó làm nên một sự thay đổi sức mạnh của cả một triều đại và nhiều triều đại sau. Vương triều Lý do Lý Công Uẩn khai sáng tồn tại 215 năm, 8 đời vua, là một triều đại lớn trong lịch sử đất nước với những ông vua anh hùng, có công khai sáng văn hiến dân tộc, như Lý Thánh Tông (1054-1072), Lý Nhân Tông (1072-1128); với những nhà quân sự, chính trị kiệt xuất : Lý Thường Kiệt, Tô Hiến Thành…Rồi tới các triều nhà Trần, nhà Hồ, nhà Hậu Lê đều làm nên những chiến tích lẫy lừng. Triều Lý phát triển mạnh về kinh tế, chính trị, văn hóa , ngoại giao : Xây dựng Kinh đô, thành quách khang trang, xây dựng các công trình thủy lợi, đê điều, phát triển nghề dệt, nghề gốm đạt tới đỉnh cao . Ngoại thương phát đạt. Vân Đồn trở thành thương cảng quốc tế có nhiều tàu buôn Xiêm La, Giava, Tam Phật Tề (Palembang)…vào ăn hàng tấp nập… Triều Lý mở Quốc Tử Giám, lập chế độ đại học, mở khoa thi chọn nhân tài , chăm lo cho người già yếu… Với một đường lối đối ngoại vừa khôn khéo, vừa cứng cỏi, vương triều Lý đã được nhà Tống phuopwng Bắc nể trọng, lãnh thổ đất nước được bảo vệ chắc chắn, toàn vẹn. Thực tế , biên giới đông bắc nước ta trải qua ngàn năm, từ triều Lý đến nay không nhiều thay đổi- một đóng góp lớn của vương triều văn trị võ công bậc nhất lịch sử dân tộc. Và trong lịch sử văm minh Việt Nam , vương triều Lý đã trở thành vương triều mở đầu kỷ nguyên văn minh Đại Việt. Và Kinh đô Thăng Long quả là cái nôi lập nghiệp đế cho muôn đời .
Trương truyền rằng, sở dĩ Lỹ Công Uẩn di dời đô sớm là do có điềm lành báo hiệu . Nhà sử học Ngô Sĩ Liên trong Đại Việt Sử ký Toàn thư viết rằng: “ Lý Thái Tổ dấy lên, trời mở điềm lành hiện ra ở vết cây sét đánh. Có đức tất có ngôi, bởi lòng người theo về , lại vừa sau lúc Lê Ngọa Triều hoang dâm bạo ngược mà vua ( Lỹ Thái Tổ) vốn có tiếng khoan nhân, trời thường tìm chủ cho dân , dân theo về người có đức, nếu bỏ vua thì còn biết theo ai ! Vua nhận mệnh sâu sắc, lặng lẽ, đời đô yên nước, lòng nhân thương dân, lòng thành cảm trời, cùng là đánh dẹp phản loạn, Nam Bắc thông hiếu, thiên hạ bình yên, truyền ngôi lâu đời, có thể thấy là có mưu lược của bậc Đế Vương…”. Chuyện “điềm trên cây sét đánh”, hay khái niệm TRỜI mà nhà sử học nói ở đây là một cách tôn vinh Lỹ Công Uẩn là CON TRỜI, bởi vì không Con Trời làm sao mà thông minh, tài giỏi tới mức có Chiếu dời đô tầm nhìn xuyên 10 thế kỷ !
Thăng Long- Hà Nội – Thế đất “rồng cuốn hổ ngồi” ấy dẫu có thời gian không phải là Kinh Đô Đại Việt ( như giai đoạn Tây Sơn Nguyễn Huệ, Triều Nguyễn 157 năm Kinh Đô ở Huế ) có lúc bị ngoại bang chiếm đóng, vẫn luôn đỏ chói trong trái tim người Việt ngàn năm. Bởi vậy, từ thuở theo Chúa Tiên Nguyễn Hoàng mở cõi phương Nam , trong trái tim những người chiến binh luôn luôn đau đáu nỗi nhớ Thăng Long-Hà Nội :Từ thuở mang gươm đi mở cõi / Ngàn năm thương nhớ đất Thăng Long (Huỳnh Văn Nghệ)…
Về Đầu Trang Go down
thuanvnh
New member
New member
thuanvnh


Tổng số bài gửi : 2
Join date : 27/08/2011

CHIẾU DỜI ĐÔ –QUYẾT SÁCH VƯỢT NGÀN NĂM Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: CHIẾU DỜI ĐÔ –QUYẾT SÁCH VƯỢT NGÀN NĂM   CHIẾU DỜI ĐÔ –QUYẾT SÁCH VƯỢT NGÀN NĂM EmptySat Sep 17, 2011 9:37 pm

bounce [img][/img] bai viet rat hay
Về Đầu Trang Go down
 
CHIẾU DỜI ĐÔ –QUYẾT SÁCH VƯỢT NGÀN NĂM
Về Đầu Trang 
Trang 1 trong tổng số 1 trang
 Similar topics
-
» BÍ QUYẾT HỌC TỐT MÔN LỊCH SỬ
» BÍ QUYẾT ĐẠT 10 ĐIỂM ĐỊA
» Lòng yêu nước không là độc quyền của riêng ai
» Xuất bản tư liệu "chưa từng công bố" của chính quyền Sài Gòn
» Quyền thế và đặc lợi

Permissions in this forum:Bạn không có quyền trả lời bài viết
TIẾNG NÓI CỦA NGÀNH VIỆT NAM HỌC :: VIỆT NAM - ĐẤT NƯỚC - CON NGƯỜI :: Lịch sử nước nhà-
Chuyển đến